Qua xuân trời đất ấm lên rồi,
Khí
hậu xem ra hợp ý người.
Mưa
tạnh đôi bờ non rực rỡ,
Gió
ngưng một dải nước xanh ngời.
Trưa
vui tựa cửa nghe chim hát
Chiều
lặng ra vườn nhặt hoa rơi
Xưa
nay cuộc sống là nơi tạm,
Chẳng
quản thời gian lặng lẽ trôi.
Nguyên tác
暮春感作
阮名儒 (1638 – 1699, 越南)
三春向暮正暄和,
晚節宜人稱意多。
兩岸雨晴山有色,
一江風靜水無波。
午窗隱几聽啼鳥,
幽徑擕笻掇落花。
古往今來生若寄,
休論光景逐蹉陀。
Âm Hán Việt
Mộ xuân cảm tác
Nguyễn Danh Nho(1638 – 1699, Việt Nam)
Tam xuân hướng mộ chính
huyên hoà,
Vãn tiết nghi nhân xứng
ý đa.
Lưỡng ngạn vũ tình sơn
hữu sắc,
Nhất giang phong tĩnh
thuỷ vô ba.
Ngọ song ẩn kỷ thính đề
điểu,
U kính huề cung xuyết
lạc hoa.
Cổ vãng kim lai sinh
nhược ký,
Hưu luận quang cảnh trục sa đà.
Dịch nghĩa:
CẢM TÁC CUỐI XUÂN
Ba tháng mùa xuân, lúc về cuối chính là lúc ấm áp
Tiết muộn hợp với người, có nhiều điều hài lòng
Hai bờ sông mưa tạnh, núi phô màu sắc
Dòng sông lặng gió, nước không có sóng
Buổi trưa tựa ghế bên cửa sổ nghe chim kêu
Chống gậy lên lối đi tĩnh mịch nhặt hoa rụng
Từ xưa đến nay, cuộc đời như sống gửi
Đừng bàn đến cảnh vật, cứ để thời gian trôi đi.
Chú thích:
- Sinh nhược ký (sống gửi): quan niệm nhà Phật cho rằng
cuộc đời con người ở trần thế như sống nhờ, sống gửi, vì nó trôi đi nhanh, thấm
thoắt chẳng được là bao. Vì vậy mà nói: sống gửi thác về (sinh ký tử quy).
Tác giả: Nguyễn Danh Nho 阮名儒 (1638
- 1699) hiệu Sằn Hiên 莘軒, người
xã Nghĩa Phù, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến
sĩ xuất thân năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Ông
làm quan chức Bồi tụng Hữu thị lang, tước Nam và được cử đi sứ sang nhà Thanh
(Trung Quốc). Sau khi mất ông được tặng Tả thị lang Bộ Công, tước Tử. Có thơ
trong Toàn Việt thi lục.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét