Thứ Tư, 4 tháng 6, 2014

ĐÊM NEO THUYỀN BẾN PHONG KIỀU Trương Kế

Chữ Hán:
楓橋夜泊
张继
月落烏啼霜滿天
江楓魚火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船
Âm Hán Việt:
PHONG KIỀU DẠ BẠC
Trương Kế
Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên
Giang phong ngư hỏa đối sầu miên
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.

Tác giả: Trương Kế
Trương Kế  (khoảng 715- khoảng 779) Tự là Ý Tôn. Nhà thơ đời Đường. Người Tương Châu (nay là thị xã Tương Dương, tỉnh Hồ Bắc). Năm thứ 12 niên hiệu Thiên Bảo, đời Đường Huyền Tông (753), thi đậu tiến sĩ. Từng giúp việc quân trong mạc phủ, và làm chức Diêm thiết phán quan. Giữa những năm Đại Lịch, Đường Đại Tông đảm nhận Kiểm Hiệu Từ bộ Lang Trung (có sử liệu chép là “Viên Ngoại Lang”, chứ không phải “Lang Trung”). Từ bộ phụ trách việc tế lễ đền chùa, xem thiên văn. Ông là người coi trọng khí tiết, có trách nhiệm và có lý tưởng. Người đời kính trọng ông không chỉ ở tài làm thơ mà còn ở phẩm cách con người ông.
Ghi chú:
Phong Kiều: tên đất, ở ngoài Xương Môn, thị xã Tô Châu, tỉnh Giang Tô.
Cô Tô: tên gọi khác của Tô Châu ngày nay, bởi phía tây nam có núi Cô Tô mà thành tên..
Hàn San tự: Chùa Han San, ở phía tây Phong Kiều. Tương truyền, đời Đường, hai nhà sư Hàn San và Thập Đắc trụ trì tại đây, nên chùa lấy tên là Han San…
Dạ bán chung thanh: “tiếng chuông lúc nửa đêm” là phong tục tại các chùa ở Tô Châu và vùng lân cận.

《枫桥夜泊》
Dịch nghĩa:
ĐÊM NEO THUYỀN BẾN PHONG KIỀU

Trăng lặn, quạ kêu, đầy trời sương, hàng cây phong bên bờ sông và ngọn đèn chài chập chờn trước giấc ngủ buồn. Chùa Han San ngoài thành Cô Tô, tiếng chuông lúc nửa đêm vẳng đến thuyền khách.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐÊM NEO THUYỀN BẾN PHONG KIỀU
Trăng tà, sương lạnh, quạ kêu,
Bờ phong giấc ngủ buồn thiu lửa chài.
Chùa Hàn San đổ chuông dài,
Đêm Cô Tô đến thuyền ai mơ màng.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 6/2014


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét