Thứ Bảy, 6 tháng 4, 2013

CON RỒNG VIỆT NAM VỚI NGƯỜI GIAO CHỈ



Theo tác giả Trần Quang Nhân – chi hội sử học Tân Bình, tp HCM
(Nguyễn Văn Chử sưu tầm và lược thuật)

Có những nhà trí thức bỏ ghế nhà trường đi làm cách mạng chỉ vì không chịu được ông thầy thực dân Pháp giảng “ tổ tiên chúng ta là người Gô Loa”. Lại cũng có người nói rằng: người Việt Nam thuộc giống người Bách Việt khởi đầu từ nước Việt của Việt vương Câu Tiễn thời Xuân Thu bên Trung Quốc. Hay người Việt Nam là một trong những dân tộc đã hình thành nước Trung Hoa mà dân tộc Hán là đàn anh?
Chúng ta phải làm cho ra nhẽ.
Vậy chúng ta phải tìm hiểu cho đến ngọn nguồn! muốn tìm đến ngọn nguồn thì phải có đủ cơ sở khoa học, có chứng cớ đủ tin cậy, nếu không thì chẳng ai tin và bị sẽ bác bỏ.
Hiện nay chưa có một cuốn sử nào khẳng định và chỉ dẫn rõ ràng, khiến lớp trẻ chúng ta có sự hụt hẫng về kiến thức sử học mà hội sử học đã nêu trên báo chí.
Muốn tích lũy kiến thức sử học thì việc đầu tiên là phải tìm hiểu về nguồn gốc dân tộc mình. Mà đụng đến Sử là đụng đến một khoa học lớn bao gồm: Nhân chủng học, Xã hội học, Ngôn ngữ học, Khảo cổ học và Dân tộc học.
Viết sử không thể là sáng tác tưởng tượng. Không thể là sao chép đơn thuần. mà phải là tra cứu đối chiếu cộng với suy luận mang tư tưởng thời đại.
Cái đáng sợ hiện nay là Môn Sử vẫn còn chưa được coi trọng ở nhà trường. Trong khi rõ ràng dân ta rất thiếu kiến thức sử học.
Việc mạnh dạn tìm cho được nguồn gốc tổ tiên mãi mãi không là việc thừa!
Các triều đại Việt Nam đều lấy biểu tượng Rồng! Rồng là tượng trưng cho quyền lực của nhà vua… Người ta coi Rồng như một vật linh thiêng tượng trưng hồn nước.
Nguồn gốc con Rồng gắn liền với nguồn gốc tổ tiên người Việt. Tìm ra nguồn gốc con Rồng là tìm ra nguồn gốc dân tộc ta vậy! Ta thường nói dân ta là “ con Rồng cháu Tiên”.
Các tư liệu nghiên cứu lịch sử đều có đặt vấn đề nguồn gốc người Việt Nam thuộc giống người Giao Chỉ.
Vậy người Giao Chỉ như thế nào? Có lẽ không ít người trong chúng ta vẫn còn mơ hồ tin vào những chuyện huyễn hoặc rằng: “ Người Giao Chỉ là người có ngón chân cái giao nhau” (Thời Pháp thuộc những năm 1937~1944, Và còn những lời giải thích hoang đường khác). Hãy bỏ qua, ta đi thẳng vào những lời đáng tin cậy mà giáo sư Đào Duy Anh đã chỉ rõ:
Giao Chỉ là gì? Trước hết đây là chữ Hán. Căn cứ vào chữ viết (字样) ở các tài liệu của Trung Quốc ta thấy: 蛟止 
Chữ Giao ở đây không có nghĩa là gặp nhau, bắt chéo, sự va chạm như ta vẫn dùng: Giao lộ, Giao tranh, Giao đấu. Mà Chữ Giao là danh từ chỉ con vật có tên là Giao Long.
Theo tự điển Hoa –Việt tân biên của Lý Văn Hùng (1960)  chữ Giao long   蛟龍 được dịch ra tiếng Việt là thuồng luồng.
Chữcho ta ý niệm về sự gặp gỡ, tiếp xúc. Nhìn con thuồng luồng nằm ngủ trên cạn bốn chi duỗi thẳng vuông góc với thân nó (chi thuồng luồng là 4 cái dải như 4 con rắn mọc ra từ thân) chẳng khác nào hai vạch nhỏ chạy ngang qua một vạch lớn. Nên người Hoa gọi nó là con Giao. Chữ Giao là danh từ riêng chỉ con vật nên ghép với bộ ( trùng) thành để chỉ con Giao thuộc loài bò sát họ Long   nên đã thành tên là Giao Long 蛟龍.
Chữ “Chỉ” ở đây không phải ngón chân ngón tay, mà chữ Chỉ (止) là vùng đất như ta vẫn dùng từ địa chỉ hàng ngày.


Vậy là đã rõ: Giao Chỉ có nghĩa là vùng đất của những con Giao Long làm chủ. Những người dân sinh sống ở vùng đất này gọi là người Giao Chỉ. Sách chỉ nói: người Giao Chỉ có tục cắt tóc xăm mình, sinh sống bằng nghề bắt cá. Vậy là người Giao Chỉ không có đặc điểm gì khác với mọi chủng tộc. Chẳng có gì kỳ dị.
Trở lại tìm hiểu con Giao Long蛟龍là con gì, thuộc loài gì, nó thế nào?
Chữ Long tiếng Hán, ta gọi nôm là Rồng. Người Hán dùng từ "Long" để gọi chung các giống vật khổng lồ có sức mạnh bất khả kháng. Có uy lực làm chủ cả một vùng đất trong thời kỳ cổ đại như khủng long, lôi long, giao long.
Con khủng long thì ai cũng đã rõ, nhưng cùng thời với khủng long, còn một con Long nữa mà người ta chưa sưu tầm đến. Nó là loài bò sát lưỡng thê khổng lồ phần nhiều sống dưới nước. Đó là con Giao Long, người Việt Nam gọi là con Thuồng luồng hay Rồng Rắn.
Giống vật này đã tồn tại và tuyệt chủng hoàn toàn vào thế kỷ thứ IX sau Công Nguyên.
Cũng có thể nó là một loài rắn có vẩy. Loài này tiếng Hán gọi là Lân Trùng, tiếng Pháp là Reptiles.
Sách Trung Quốc mô tả về con Giao Long cũng như các cụ già Việt Nam kể về con Thuồng luồng đều giống nhau: “ Mình rắn có vẩy ngược. Thân to như cột đình. Đầu to, miệng có nanh sắc”.
Rất tiếc đến nay chưa có bộ xương hóa thạch nào của con Giao Long. Nhưng Giao Long vẫn để lại hình ảnh cho chúng ta. Đó là con Rồng Việt Nam.
Phải nói rõ là Con Rồng Việt Nam vì ở Châu Âu cũng có con Rồng. Tiếng Pháp là Dragon. Con Rồng Châu Âu chỉ là một con vật của truyện thần thoại; hầu hết đều biểu hiện cho sự hung hãn. Người ta hình dung nó lúc thế này lúc thế khác tùy theo óc tưởng tượng của các nhà làm phim hoặc viết chuyện thần thoại. Rồng Châu Âu được xây dựng là một con vật mình sư tử có 4 chân như con sư tử đầu rồng. Còn con Rồng Việt Nam lúc nào cũng định hình nhất quán, mang một biểu tượng thiêng liêng.
Trở lại tìm hiểu người Giao Chỉ. Theo tài liệu của Giáo sư Đào Duy Anh chúng ta rút gọn lại vấn đề sau:
Vào khoảng 5000 năm trước công nguyên- ở đầu thời kỳ đồ đá mới. Người Giao Chỉ hình thành xã hội nguyên thủy ở lưu vực sông Dương Tử, sinh sống ở vùng sông nước thường lặn xuống bắt cá nên hay bị Giao Long làm hại. Họ đã xăm mình cho giống con Giao Long để nó tưởng là đồng loại mà không ăn thịt.
Ở vùng đất này còn có loài chim hậu điểu sống từng đàn trên mặt nước ăn tôm cá ( như cò, vạc). Chim hậu điểu thuộc loài vịt nước to hơn con ngỗng, có lông cánh dài như ngỗng. Tiếng kêu phát thành âm: Lạc! ạc! ạc. Người Giao Chỉ gọi là chim Lạc. Trứng của loài chim Lạc là thức ăn phổ biến của người Giao Chỉ tạo nên sự gắn bó giữa người và chim.
Giống chim này có tập quán mùa lạnh là kéo cả đàn bay về phương nam tránh rét, đến mùa gió nồm lại bay về chỗ cũ. Hiện tượng này gợi cho người Giao Chỉ ý nghĩ theo chim để đi tìm đất mới.
Họ đã theo chim Lạc dựa theo gió mùa hàng năm vượt biển về phương Nam. Đổ bộ lên dọc sông Hồng, sông Mã. Định cư ở vùng Quảng Bình tới Nghệ An, Thanh Hóa và Đồng bằng Bắc bộ ngày nay. Cũng có những người dũng cảm vượt xuống tận Indonesia ngày nay.
Hình ảnh những cuộc vượt biển ấy chúng ta đã thấy còn ghi trên trống đồng mà các nhà khảo cổ của ta đã tìm được.
Ở đây người Giao Chỉ tụ tập phát triển ngày một đông. Qua thời kỳ đồ đá mới bước sang thời kỳ đồ đồng; họ hình thành xã hội Công xã Nguyên thủy, lập nên cac bộ lạc Giao Chỉ. (theo GS  Đào Duy Anh khoảng 1000 năm trước CN nước ta đã có 15 bộ lạc Giao Chỉ).
Đến năm 696 trước CN ở đất Gia Ninh có một người Giao Chỉ tài giỏi được các bộ lạc tôn làm thủ lĩnh. Xưng là Hùng Vương. Nối tiếp 18 đời đều gọi là Hùng Vương. Ta có thể coi thời kỳ dựng nước bắt đầu từ đây.
Cùng thời điểm này dân ta xây dựng nên chuyện thần thoại về họ Hồng Bàng với chuyện Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh trăm trứng.
Xin lưu ý nguồn gốc của bất kỳ dân tộc nào trên trái đất này cũng khởi đầu bằng một thân thoại, mang tư tưởng suy tôn nguồn gốc dân tộc mình. Và càng nên hiểu rằng thần thoại không phải sự thật lịch sử.
Bối cảnh sau thời kỳ vua Hùng dựng nước thì đã tương đối rõ…
Đến đây chúng ta hãy kết thúc điều mà chúng ta tìm hiểu: “ Con Rồng Việt Nam và nguồn gốc tổ tiên người Việt.”
Không còn lý luận nào khác. Tổ tiên chúng ta là người Giao Chỉ, mà Hùng Vương là đại diện thủ lĩnh của liên minh các bộ lạc Giao Chỉ.
Tổ tiên ta có tục xăm mình là sợ con Giao Long làm hại. Cuộc sống sinh tồn gắn liền và luôn ở chung với con vật khủng khiếp đó qua thời gian dài đằng đẵng của buổi hoang sơ khiến phát sinh quan niệm ToTem*. Tổ tiên ta nhận Giao Long là vật tổ. Cho đến khi Giao Long tuyệt chủng.
Người Giao Chỉ đã văn minh biết trồng lúa nuôi gia súc, không còn phải lặn xuống nước bắt cá như ông cha ngày trước. Song tục xăm mình vẫn còn, tức là vẫn còn ý niệm thờ vật tổ.
Đến các triều đại phong kiến. Giao Long vật tổ được các nghệ nhân tô điểm cho đẹp đẽ hùng vĩ để làm biểu tượng cho quyền lực của nhà vua. Đó là con rồng (thực tế Giao Long không có bàn chân, nên khi vẽ chân con rồng, có người vẽ 5 móng, có người vẽ 4 móng)
Vậy con rồng Việt Nam là hình ảnh một sinh vật có thật ở thời cổ đại. Khác với con Dragon của Âu Châu chỉ là con vật thần thoại. (Rồng ta và Rồng tây khác nhau).
Chính điều này đã làm lạc hướng giáo sư Đào Duy Anh. Ông đã dày công nghiên cứu về người Giao Chỉ. Đã tìm ra con Giao Long Thuồng luồng. Nhưng ông lại bị con Dragon Âu Châu làm lạc hướng; nên người GS đáng kính của chúng ta cho Rồng là một con vật thần thoại không cần xét đến, mà người lại nghiên cứu theo giả thuyết của nhà sử học Pháp- ông L’ Aurousseau** – nên chưa có hồi kết thúc.
Chúng ta được kế thừa di sản của người Giáo sư lỗi lạc tận tụy với sự nghiệp. Người đã dẫn chúng ta tới đích mà chưa kịp khẳng định. Nay người đã quá cố chúng ta có nhiệm vụ lên tiếng kết thúc vấn đề. Con rồng hiện nay có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Trên các đền đài lăng miếu trong các ngày lễ hội. Nó là dấu ấn lịch sử công nhận Tổ tiên chúng ta là người Giao Chỉ.
Tự hào là con cháu Rồng tiên, chúng ta hãy chung tay góp sức để Rồng Việt Nam sẽ bay lên cùng các con rồng đã hóa, đang hóa và sẽ hóa của thế giới. Đúng với ý nghĩa Thăng Long mà Tổ tiên ta đã nhìn ra….


*ToTem: Danh từ khoa học dùng để chỉ dẫn một quan niệm đã trở thành phổ biến của hầu hết các chủng tộc thời hoang sơ thường lấy một giống vật có quan hệ với chủng tộc của mình tôn thờ làm vật tổ. Theo quan niệm của ToTem: Chủng tộc đó thường nghĩ rằng mình là con cháu của vật mà chủng tộc tôn thờ.
** L’ Aurousseau giám đốc Viễn đông Bác cổ năm 1936-1940). Ông cho rằng Giao Long là một giống cá sấu lớn mà người Pháp gọi là Alligator hiện nay có thể còn có ở song Dương Tử

Thứ Tư, 3 tháng 4, 2013

MỎI CÁNH CHIM

            "Quyện điểu: Mỏi cánh chim" là bài thơ chữ Hán của Tác giả Ngô Vinh Phú, sinh năm 1951, người Hải Vĩ, thành phố Đài Nam, tiến sĩ văn học, giáo sư khoa tiếng Trung, ĐH Thành Đại, Đài Loan. Dưới đây, xin giới thiệu 2 bản dịch ra tiếng Việt:

Chữ Hán:

吴荣富
密雨斜懒飞,
旧巢何
力疲微。
衣巷剩泥空落,
金谷园残景已非。
野渚慵啼霜露冷,
黄山怠舞羽毛稀。
影形骸瘦,
万里
归。


Âm Hán Việt:
QUYỆN ĐIỂU*
Ngô Vinh Phú
Mật vũ tà phong sí lãn phi,
Cựu sào hà xứ lực bì vi.
Ô-Y hạng thặng nê không lạc,
Kim - cốc viên tàn cảnh dĩ phi.
Dã chử dung đề sương lộ lãnh,
Hoàng sơn đãi vũ vũ mao hy.
Lâm giang cố ảnh hình hài sấu,
Vạn lý phiêu linh hoan vị quy.

   Chú thích:
 -   *Quyện điểu: Mỏi cánh chim, (ví với người gặp nhiều sóng gió, khó khăn nơi xa xôi, quá mệt mỏi..., muốn về nhà. Nhưng tổ cũ, vườn xưa hầu như đã không còn, không biết về đâu, phiêu dạt muôn nơi, tìm mãi chưa thấy cảnh vui vầy ). 
-    Ô - Y hạng: Ngõ Ô -Y (ngõ Áo Đen). Tên đất, ở huyện Giang Ninh (thuộc Nam Kinh TQ hiện nay). Đời Tấn, Vương Đạo, Tạ An ở đây; con cháu của hai vọng tộc này đều mặc áo đen, nên miền đất này gọi là Ngõ Ô - Y  (ngõ Áo Đen).
-    Kim - Cốc viên: Vườn Kim Cốc,  tương truyền là nơi xây dinh thự nguy nga của Thạch Sùng, người giàu nhất Trung Quốc thời Tây Tấn. Nơi xảy ra việc Tôn Tú đòi Thạch Sùng tặng cho hắn người thiếp xinh đẹp tên là Lục Châu. Thạch Sùng khước từ, Lục Châu nhảy xuống lầu ở đài Thanh Lương, trong Kim Cốc viên tự tử. Vì việc này, Thạch Sùng bị Tôn Tú gièm pha với Triệu – vương Luân và bị giết chết, về sau vườn Kim Cốc trở thành hoang phế.

Dịch nghĩa:
MỎI CÁNH CHIM 
Mưa mau gió xiên, cánh chim uể oải, tổ cũ ở nơi đâu, sức đã mệt yếu. Ngõ Ô - Y ngày xưa, nay chỉ còn lại bùn lội không chỗ đậu, Vườn Kim - Cốc  đã tàn, cảnh đã không còn như xưa. Bãi sông hoang, chim mệt kêu, sương lạnh, vùng núi trọc, múa uể oải, lông vũ thưa thớt Đến bên sông, soi bóng thấy thân hình gầy guộc, muôn dặm phiêu dạt, niềm vui còn chưa về.



Dịch thơ: 


1/ Nguyễn Hữu Thăng dịch:
CHIM BAY MỎI        
Mưa vùi gió dập, vật vờ bay,
Mỏi cánh, tổ đâu chốn nước mây? 
Ngõ cũ Ô Y, bùn khó đậu,
Vườn tàn Kim Cốc, cảnh buồn thay.
Bãi hoang sương lạnh kêu nhao nhác,
Núi trụi lông trơ múa lắt lay.
Đến bến soi mình nhìn rệu rã,
Lang thang muôn dặm khó vui vầy.
2/ Nguyễn Văn Chử dịch:
MỎI CÁNH CHIM
Mưa xiên gió tạt giữa trời mây
Tổ cũ tan rồi mỏi cánh bay
Ngõ lội Ô - Y  khôn đậu nổi
Vườn tàn Kim - Cốc khó về thay
Cồn hoang sương lạnh lười ca hát
Đồi trọc lông thưa ngại múa may
Đến bến soi mình trơ vóc hạc
Trùng xa khó kiếm cảnh vui vầy.
Tp HCM 4/4/2013.