Chữ Hán: 下江陵 李白 朝辭白帝彩雲間, 千里江陵一日還。 兩岸猿聲啼不住,(不盡) 輕舟已過萬重山。 |
Âm Hán Việt: HÁ GIANG LĂNG Lý Bạch Triêu từ Bạch Đế thái vân gian, Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn. Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ, (bất tận) Khinh chu dĩ quá vạn trùng san. |
Ghi chú:
Bạch Đế: tên thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, TQ ngày nay.
Giang Lăng: tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc, TQ.
Bối cảnh: Mùa Xuân năm 759 (năm thứ 2 Càn Nguyên, Đường Túc Tông),
Lý Bạch bị cho là dính líu đến vụ án Vĩnh vương Lý Lân, lưu đày đi Dạ Lang. Khi
đến Bach Đế thành, bỗng được tin phóng thích, ông vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ,
liền đi thuyền xuôi hướng đông về Giang Lăng. Bài thơ được làm khi cập bến
Giang Lăng, nên tựa đề lấy là “下江陵:Há Giang Lăng (Xuôi Giang Lăng)” còn có tựa
khác là “早發白帝城: Tảo phát Bạch Đế thành (Buổi sáng, từ thành
Bạch Đế ra đi)”
Dịch
nghĩa:
XUÔI
GIANG LĂNG
Buổi
sáng, từ biệt thành Bạch Đế trong bầu trời mây đẹp, huyện Giang Lăng xa ngàn dặm,
mà có thể một ngày đã về tới nơi. Hai
bờ sông tiếng vượn kêu mãi không dứt, con thuyền nhẹ đã vượt muôn trùng núi
non.
Nguyễn Văn Chử dịch:
XUÔI
GIANG LĂNG
Sáng rời Bạch Đế mây hồng,
Giang Lăng ngàn dặm, về
trong một ngày.
Hai bờ vượn hót liên hồi,
Qua muôn trùng núi, nhẹ xuôi
con thuyền.
Tp HCM, 22/11/09
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét