Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2014

GẶP SỨ GIẢ VÀO KINH - Sầm Tham

Chữ Hán:
逢入京使
岑參
故園東望路漫漫
雙袖龍鍾淚不乾
馬上相逢無紙筆
慿君傳語報平安
Âm Hán Việt:
PHÙNG NHẬP KINH SỨ
Sầm Tham
Cố viên đông vọng lộ man man,
Song tụ long chung lệ bất can.
Mã thượng tương phùng vô chỉ bút,
Bằng quân truyền ngữ báo bình an.

Tác giả: Sầm Tham.
Sầm Tham (khoảng 715 – 770), người Hán, quê gốc Nam Dương, tỉnh Hà Nam (nay thuộc Tân Dã, Hà Nam), chuyển đến ở Giang Lăng (nay là Hồ Bắc), là nhà thơ biên thùy nổi tiếng đời Đường.
Năm 744 (đời Đường Huyền tông) thi đậu tiến sĩ, được bổ làm tham quân, rồi thăng làm Tả bổ khuyết. Vì chỉ trích bọn quyền thần, bị đổi làm chức Khởi cư lang, rồi biếm ra làm Trưởng sử tại Quắc Châu. Sau về triều làm chức Thái sử trung doãn. Đời Đường Đại tông, làm Thứ sử Gia châu. Rồi làm tòng sự cho trấn thủ Tây Xuyên là Đỗ Hồng Tiệm, được phong chức Lang trung kiêm Thị ngự sử. Sau từ chức, về Đỗ Lăng, rồi mất ở đất Thục, lúc tạ thế mới 55 tuổi.
Thơ ca của ông giàu chất lãng mạn, khí thế hùng vĩ, tưởng tượng phong phú, sắc thái tráng lệ, nhiệt tình hào phóng. Thơ hiện còn có 403 bài, hơn 70 bài là thơ biên thùy.

Dịch nghĩa:
GẶP SỨ GIẢ ĐI VÀO KINH
Nhìn về phía quê nhà hướng đông, đường đi dài dằng dặc, hai tay áo chùi nước mắt đầm đìa không khô. Trên lưng ngựa gặp nhau, nào có đem theo giấy bút, nhờ ông chuyển lời báo tin tôi vẫn bình an.

《逢入京使》

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
GẶP SỨ GIẢ ĐI VÀO KINH
Sầm Tham
Phía đông quê cũ xa mờ,
Hai bên tay áo chẳng khô lệ tràn.
Trên yên, giấy bút nào mang,
Báo giùm tôi vẫn bình an xứ người.

Tháng 3/2014



Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

NGẪU NHIÊN VIẾT KHI VỀ LÀNG - Hạ Tri Chương

Chữ Hán:
     
賀知章
少小離家老大回,
鄉音無改鬢毛衰。
兒童相見不相識,
笑問客從何處來。
Âm Hán Việt:
HỒI HƯƠNG NGẪU THƯ
Hạ Tri Chương
Thiếu tiểu ly gia lão đại hồi,
Hương âm vô cải mấn mao tồi.
Nhi đồng tương kiến bất tương thức,
Tiếu vấn khách tòng hà xứ lai.

Tác giả: Hạ Tri Chương:
Hạ Tri Chương (659 - 744), tự Quý Chân, hiệu Thạch Song, những năm cuối đời lấy hiệu là Tứ Minh Cuồng khách, là nhà thơ nổi tiếng, người Vĩnh Hưng, Việt Châu đời Đường (nay là Tiêu Sơn, Chiết Giang, Trung Quốc); (theo Trần Trọng San thì ghi ông là người Vĩnh Hưng, Việt Châu, Quảng Đông, Trung Quốc). Là cháu 18 đời của Hạ Tề, danh tướng Đông Ngô thời Tam Quôc. Ông đỗ Tiến Sĩ đời Vũ Hậu năm 684, được bổ làm Thái thường bác sĩ. Năm thứ 30 Khai Nguyên, đời Đường Huyền Tông (710) , ông làm Lễ bộ thị lang kiêm Tập hiền viện học sĩ, đổi làm Thái tử tân khách, rồi Bí thư giám. Đầu đời Thiên Bảo, ông xin từ quan về làm đạo sĩ.  Ông là bạn vong niên với Lý Bạch, từng gọi Lý Bạch là "trích tiên" (tiên bị đày). Sau này người đời mới gọi Lý Bạch là “Thi tiên”
Thơ lưu truyền lại của ông không nhiều, trong “Toàn Đường thi” ghi chép lại chỉ có 20 bài, nổi tiếng có “Vịnh liễu”- 《咏柳》, hai bài “Hồi hương ngẫu thư”    .
Hạ Tri Chương còn rất giỏi thư pháp (Lệ thư, Thảo thư).
“Hồi Hương Ngẫu Thư” (Bài 1) của Ông sáng tác khi từ quan về quê thăm nhà sau hơn năm mươi năm xa cách. Bài thơ dạt dào tình cảm, diễn tả những nỗi niềm chất phát thiết tha từ đáy lòng của nhà thơ. Ông đã từ giã quê hương ra đi để mưu tìm công danh sự nghiệp vào những năm còn trai trẻ, và trở về làng sau khi qua bao nhiêu thăng trầm dâu bể của cuộc đời, tóc đã thưa và bạc, nhưng giọng nói quê cũ của ông vẫn không hề đổi thay, chứng tỏ tình cảm của ông vẫn luôn còn gắn bó tha thiết với quê hương. Sau bao nhiêu năm xa cách nơi chôn nhau cắt rốn, trở về thăm quê cha đất tổ, gặp đàn trẻ nhỏ chạy chơi quanh quẩn, lạ lẫm nhìn ông và hỏi như một người khách từ phương xa đến, âu cũng là chuyện dễ hiểu…

Dịch nghĩa:
NGẪU NHIÊN VIẾT KHI VỀ LÀNG
Thuở nhỏ rời xa quê, già mới trở về. Giọng nói quê nhà vẫn không thay đổi, nhưng tóc thì đã bạc và thưa. Lũ trẻ nhìn thấy, không biết mình là ai, nên cười và hỏi: “Ông là khách ở đâu đến?”.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
NGẪU NHIÊN VIẾT KHI VỀ LÀNG
Trẻ đi, già mới trở về,
Giọng quê vẫn giữ, tóc thì bạc phau.
Trè thơ thấy lạ nhìn nhau,
Hỏi cười: “khách ở nơi đâu đến làng?”.
Tháng 3 năm 2014