Thứ Hai, 24 tháng 6, 2013

TIẾT PHỤ NGÂM - Trương Tịch

Chữ Hán:
节妇吟
张籍
君知妾有夫,
赠妾双明珠;
感君缠绵意,
系在红罗襦。
妾家高楼连苑起,
良人执戟明光里。
知君用心如日月,
事夫誓拟同生死。
还君明珠双泪垂,
恨不相逢未嫁时
Âm Hán Việt:
TIẾT PHỤ NGÂM
Trương Tịch
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá thì.

Chú thích:    Trương Tịch là nhà thơ đời Đường (Trung Đường)
                Minh Quang: tên điện Nhà Hán, ở phía tấy cung Vị Ưởng.
Sách Dung Trai tam bút chép rằng: Trương Tịch đã làm việc tại mạc phủ, viên soái đất Vận là Lý Sư Cổ cho người mang lễ vật đến mời ông tới giúp việc; ông khước từ và làm bài “Tiết phụ ngâm” gửi lại.
Bài thơ bề ngoài là thơ thể hiện tình yêu nam nữ, nhưng cốt lõi lại là một bài thơ chính trị. Trương Tịch khéo mượn nó để nói lên ý chí trong sáng của mình.
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI TIẾT PHỤ
Chàng biết thiếp đã có chồng, mà còn tặng đôi hạt minh châu. Cảm động vì tấm tình lưu luyến của chàng, thiếp đeo minh châu này trong áo lụa hồng. Nhà thiếp có lầu cao kề bên vườn ngự; chồng thiếp làm chấp kích lang trong điện Minh Quang. Biết chàng có ý định trong sáng như nhật nguyệt; nhưng trong phận sự làm vợ, thiếp đã thề cùng chồng sống chết có nhau. Trả minh châu lại chàng, hai hàng lệ tuôn rơi. Hận rằng đã không gặp khi thiếp con chửa lấy chồng.



Dịch thơ
Bài dịch của Trần Trọng San:
Tiết phụ ngâm
Thiếp có chồng, chàng đà hay biết;
Đôi minh châu tha thiết còn trao.
Tạ lòng vương vấn biết bao,
Ngọc này thiếp buộc áo đào thắm tươi,
Nhà thiếp ở kề ngoài Ngự uyển.
Chồng thiếp làm lính điện Minh Quang.
Biết chàng lòng sáng như trăng;
Thờ chồng, thiếp nguyện đá vàng thủy chung.
Trả minh châu, lệ đôi dòng,
Hận không gặp lúc chỉ hồng chưa se.

Bài dịch của Ngô Tất Tố:
Tiết phụ ngâm
Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em, chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.

Một số bài dịch khác:
Nguyễn Hữu Thăng dịch:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI VỢ THỦY CHUNG
Biết em là gái có chồng
Sao anh còn tặng đôi vòng long lanh
Tim em xao xuyến tình anh
Ngọc này em giắt trong manh áo hồng
Bên lầu, vườn ngự mênh mông
Chồng em ôm kích cung rồng Minh Quang
Lòng anh sáng tựa trăng vàng
Vì chồng, em chẳng mơ màng bộc dâu
Lệ tuôn, trả lại ngọc châu
Hận đời không sớm gặp nhau thủa nào...

Nguyễn Thùy Minh (Yên Liên) dịch:
Tiết phụ ca
Chàng hay thiếp đã có chồng
Tặng châu chàng vẫn tỏ lòng mến yêu
Ý chàng sâu đậm bao nhiêu
Thiếp nào không hiểu… châu đeo bên mình
Nhà thiếp lầu rộng vườn xinh
Phu quân tại ngũ trả tình nước non
Tâm chàng sáng tựa trăng tròn
Cùng người thiếp đã sắt son lời nguyền
Hoàn châu cho kẻ vô duyên
Lệ rơi, giá gặp khi thuyền chưa neo!

Nguyễn Văn Chử dịch:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI TIẾT PHỤ
Biết nay thiếp đã có chồng,
Chàng còn tặng ngọc tỏ lòng vấn vương.
Cảm chàng nghĩa nặng tình trường,
Thiếp đeo ngọc ấy trong vuông áo hồng.
Nhà kề vườn ngự mênh mông,
Chồng làm lính gác điện rồng Minh Quang
Lòng chàng những sáng tựa trăng,
Thờ chồng, thiếp nguyện trăm năm giữ tròn.
Trả minh châu nước mắt tuôn,
Sao không gặp thuở còn son hỡi chàng.




Thứ Ba, 11 tháng 6, 2013

TIẾT PHỤ - LIỆT NỮ

            “Tiết phụ” , chỉ người con gái kiên quyết giữ trinh tiết không cải giá; “liệt nữ”, chỉ người con gái để tránh khỏi ô nhục mà tự sát tuẫn tiết. Từ sau thời Nam Tống, “Tiết phụ liệt nữ” luôn được xã hội ca tụng, “tiết phụ”, “trung thần” và “hiếu tử” cùng trở thành những mẫu mực để mọi người tôn phụng, mà ba tấm gương này chính là đối ứng với “quân vi thần cương, phụ vi tử cương, phu vi thê cương”. Đến thời Minh, cách nhìn tiết liệt trong xã hội lên tới đỉnh điểm, tới mức các nơi đua nhau lấy việc xây dựng cổng trào trinh tiết làm hãnh diện, việc này đã tăng cường sự khích lệ đối với nhà nước Trung Hoa. “Quy tắc Bộ Lễ” nhà Thanh quy định, “tiết phụ” là “từ trước 30 tuổi thủ tiết đến 50 tuổi, hoặc tuổi chưa đủ 50 mà đã mất, người đó đã thủ tiết được 10 năm, xét là người hiếu nghĩa kiêm toàn, bất hạnh rất đáng thương”, và “Trinh nữ chưa cưới” thủ trinh vì chồng; “Liệt nữ” bao gồm “gặp cướp thủ tiết đến chết”, “do không chịu bị cưỡng hiếp mà chết, do bị chọc ghẹo xấu hổ căm phẫn mà tự vẫn”, và “người tiết phụ bị thân thuộc bức giá đến chết, người con gái nuôi dưỡng từ nhỏ (để làm dâu) vẫn chưa thành hôn, chống lại sự chọc ghẹo của chồng mà chết”,v.v…
       Hàng năm trưởng tộc, trưởng chòm xóm các địa phương phải đề cử Tiết phụ liệt nữ với Quan phủ, mà Quan phủ các cấp  cũng phải có biểu chương tương ứng. Kinh đô, tỉnh phủ, châu huyện đều phải xây dựng “nhà thờ tiết hiếu” cổng chào lớn cao ngất, phụ nữ được tuyên dương sẽ được ghi tên trên cổng chào, sau khi chết đặt bài vị trong nhà thờ, cho người cúng lễ quanh năm. Quan phủ còn đặc biệt phát cho nhà đó 30 lạng “bạc cổng” để xây cổng chào. Tên của Tiết phụ liệt nữ còn được ghi vào chính sử và địa phương chí, nếu sự tích liệt nữ đặc biệt đột xuất, thậm chí còn được “ngự ban tấm lụa hoành phi thi chương” của Hoàng đế.
        Trong các thư tịch giáo dục phụ nữ thịnh hành đương thời như “Nữ học”, “Giáo nữ di quy”, “Nữ phạm tiệp lục”… cũng tuyên dương rùm beng quan niệm trinh tiết, những việc làm này đã đẩy sự cao thượng của Tiết phụ liệt nữ lên đến cực điểm, hàng ngàn hàng vạn phụ nữ hoặc do tự nguyện, hoặc do bị bức đến suốt đời ở góa, thậm chí tuẫn tiết vì chồng.
ST

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2013

TÚC HẠ


Túc hạ, thường dùng vào việc xưng hô kính trọng giữa những người bằng vai hoặc bạn bè.
Tương truyền thời kỳ Xuân Thu, Tấn công tử Trọng Nhĩ phiêu bạt ra ngoài 19 năm, sau này lại trở về nước Tấn làm Tấn quân, tức Tấn Văn công. Tân Văn công sau khi lên ngôi, muốn phong thưởng cho người có công, Giới Chi Thôi cùng ông phiêu bạt năm ấy từ chối không nhận phong thưởng, dẫn cha mẹ vào trong Miên Sơn ở ẩn.
Tấn Văn công vào Miên Sơn tìm ông, ông trốn không ra. Tấn Văn công dùng biện pháp đốt rừng buộc ông phải ra, không ngờ Giới Chi Thôi cự tuyệt ôm vào cây lớn chịu chết cháy. Tấn Văn công vô cùng thương xót. Liền sai người chặt cây lớn ấy đẽo thành guốc mộc đi vào chân, mỗi khi nhớ đến Giới Chi Thôi liền nhìn đi nhìn lại guốc mộc dưới chân nói rằng: “Thương lắm thay, túc hạ.” Từ “túc hạ” từ đó mà ra. “Túc hạ” vì khi mới bắt đầu đã đại biểu cho người mà Tấn Văn công hằng kính trọng, nên dần dần biến thành đại từ nhân xưng biểu thị ý kính mến đối với bạn bè.