Chữ Hán:
节妇吟 张籍
君知妾有夫,
赠妾双明珠;
感君缠绵意,
系在红罗襦。
妾家高楼连苑起,
良人执戟明光里。
知君用心如日月,
事夫誓拟同生死。
还君明珠双泪垂,
恨不相逢未嫁时
|
Âm Hán Việt:
TIẾT PHỤ NGÂM
Trương Tịch
Quân tri thiếp hữu phu,
Tặng thiếp song minh châu.
Cảm quân triền miên ý,
Hệ tại hồng la nhu.
Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,
Lương nhân chấp kích Minh Quang lý.
Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt,
Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.
Hoàn quân minh châu song lệ thùy,
Hận bất tương phùng vị giá thì.
|
Chú thích: Trương Tịch là nhà thơ đời Đường
(Trung Đường)
Minh Quang: tên điện Nhà Hán, ở phía tấy cung Vị Ưởng.
Sách Dung Trai tam bút chép rằng: Trương Tịch đã làm việc tại mạc phủ,
viên soái đất Vận là Lý Sư Cổ cho người mang lễ vật đến mời ông tới giúp việc;
ông khước từ và làm bài “Tiết phụ ngâm” gửi lại.
Bài thơ bề ngoài là thơ thể hiện tình yêu nam nữ, nhưng cốt lõi lại là một
bài thơ chính trị. Trương Tịch khéo mượn nó để nói lên ý chí trong sáng của
mình.
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI TIẾT PHỤ
Chàng biết thiếp đã có
chồng, mà còn tặng đôi hạt minh châu. Cảm động vì tấm tình lưu luyến của chàng,
thiếp đeo minh châu này trong áo lụa hồng. Nhà thiếp có lầu cao kề
bên vườn ngự; chồng thiếp làm chấp kích lang trong điện Minh Quang. Biết chàng có ý định
trong sáng như nhật nguyệt; nhưng trong phận sự làm vợ, thiếp đã thề cùng chồng
sống chết có nhau. Trả minh châu lại chàng, hai hàng lệ tuôn rơi. Hận rằng đã
không gặp khi thiếp con chửa lấy chồng.
Dịch thơ
Bài dịch của Trần Trọng San:
Tiết phụ ngâm
Thiếp có chồng, chàng đà hay biết;
Đôi minh châu tha thiết còn trao.
Tạ lòng vương vấn biết bao,
Ngọc này thiếp buộc áo đào thắm tươi,
Nhà thiếp ở kề ngoài Ngự uyển.
Chồng thiếp làm lính điện Minh Quang.
Biết chàng lòng sáng như trăng;
Thờ chồng, thiếp nguyện đá vàng thủy chung.
Trả minh châu, lệ đôi dòng,
Hận không gặp lúc chỉ hồng chưa se.
Bài dịch của Ngô Tất Tố:
Tiết phụ ngâm
Chàng hay em có chồng rồi,
Yêu em, chàng tặng một đôi ngọc lành.
Vấn vương những mối cảm tình,
Em đeo trong áo lót mình màu sen.
Nhà em vườn ngự kề bên,
Chồng em cầm kích trong đền Minh Quang.
Như gương, vâng biết lòng chàng,
Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng thề xưa.
Trả ngọc chàng, lệ như mưa,
Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.
Một số bài dịch khác:
Nguyễn Hữu Thăng dịch:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI VỢ THỦY CHUNG
Biết em là gái có chồng
Sao anh còn tặng đôi vòng long lanh
Tim em xao xuyến tình anh
Ngọc này em giắt trong manh áo hồng
Bên lầu, vườn ngự mênh mông
Chồng em ôm kích cung rồng Minh Quang
Lòng anh sáng tựa trăng vàng
Vì chồng, em chẳng mơ màng bộc dâu
Lệ tuôn, trả lại ngọc châu
Hận đời không sớm gặp nhau thủa nào...
Nguyễn Thùy Minh (Yên Liên) dịch:
Tiết phụ ca
Chàng hay thiếp đã có chồng
Tặng châu chàng vẫn tỏ lòng mến yêu
Ý chàng sâu đậm bao nhiêu
Thiếp nào không hiểu… châu đeo bên mình
Nhà thiếp lầu rộng vườn xinh
Phu quân tại ngũ trả tình nước non
Tâm chàng sáng tựa trăng tròn
Cùng người thiếp đã sắt son lời nguyền
Hoàn châu cho kẻ vô duyên
Lệ rơi, giá gặp khi thuyền chưa neo!
Nguyễn Văn Chử dịch:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI TIẾT PHỤ
Biết nay thiếp đã có chồng,
Chàng còn tặng ngọc tỏ lòng vấn vương.
Cảm chàng nghĩa nặng tình trường,
Thiếp đeo ngọc ấy trong vuông áo hồng.
Nhà kề vườn ngự mênh mông,
Chồng làm lính gác điện rồng Minh Quang
Lòng chàng những sáng tựa trăng,
Thờ chồng, thiếp nguyện trăm năm giữ tròn.
Trả minh châu nước mắt tuôn,
Sao không gặp thuở còn son hỡi chàng.