Thứ Sáu, 30 tháng 8, 2013

THÁP EIFFEL



Tháp Eiffel nằm ở bờ nam sông Seine thành phố Paris nước Pháp, là công trình kiến trúc cao nhất nước Pháp, cũng là một trong những biểu tượng của Paris.
Năm 1884, Chính phủ Pháp để kỷ niệm 100 năm Cách mạng tư sản Pháp, đã quyết định tổ chức triển lãm Quốc tế, và xây dựng một chiếc tháp kỷ niệm, Ủy ban bình chọn cuối cùng đã chọn phương án thiết kế của nhà kiến trúc nổi tiếng Gustave Eiffel.
Tháp Eiffel cao 327,7 mét, tương đương với tòa cao ốc 100 tầng. Thân tháp hoàn toàn bằng sắt thép, trong lượng tới 9000 tấn, được hàn nối từ 12 ngàn chi tiết kim loại tạo thành. Trên tháp có 3 đài quan sát trên, giữa, dưới, có thể dung nạp cùng một lúc 10 ngàn người. Từ mặt đất đến đỉnh tháp có thang máy, mọi người cũng có thể đi theo 1710 bậc thang bộ leo lên đỉnh tháp. Đài quan sát tầng cao nhất cách mặt đất 276 mét, diện tích 350 mét vuông; Đài tầng giữa cách đất 115 mét. Quan sát từ trên tháp, toàn bộ Paris đều nằm gọn trong tầm mắt.
Tháp Eiffel thi công trải qua 26,5 tháng, tiêu tốn trên 800 ngàn francs, hoàn công tháng 3 năm 1889. Thiết kế của nó vô cùng chính xác, chặt chẽ, chu đáo. Trong thi công công trình hơn hai năm, không hề xảy ra bất cứ sự cố thương vong nào. Khi tổ hợp điều chỉnh các chi tiết, lỗ khoan đều rất khớp, đây là một kỳ tích tài giỏi trong lịch sử kiến trúc.
Nguyễn Văn Chử ST

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2013

LUẬT PHÁP VÀ QUY ĐỊNH LỄ NGHĨA HÀ KHẮC CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC

Thất xuất
“Thất xuất” là 7 điều kiện để đàn ông bỏ vợ theo luật pháp và quy định lễ nghĩa cổ đại Trung Quốc. Người vợ chỉ cần phạm phải bất kỳ một điều nào trong đó, người chồng hoặc gia đình nhà chồng có thể đề xuất bỏ vợ. 
Cụ thể là: 
1. Không hiếu thuận với cha mẹ chồng, bị coi là “nghịch đức”. 
2. Không con, tức là người vợ không thể sinh con cái, lý do bị bỏ là “tuyệt thế”. Cổ đại Trung Quốc, về mặt ý nghĩa nào đó mà nói, kết hôn là để nối dõi tông đường, không thể sinh con, hôn nhân sẽ mất đi ý nghĩa. Nhưng cổ đại lại có chế độ nhất thê đa thiếp, việc thật sự bỏ vợ vì lý do này không nhiều. 
3. Dâm, tức người vợ ngoại tình, lý do bị bỏ là “loạn tộc”. Cổ đại cho rằng như thế sẽ tạo cho hậu thế sự hỗn loạn về huyết thống và thế hệ. 
4. Ghen tuông, lý do là “loạn gia”. Vì thời cổ thực hiện chế độ nhất thê đa thiếp, vợ ghen tuông sẽ tạo ra sự bất hòa trong gia đình. 
5. Bị bệnh khó chữa, chỉ người vợ mắc bệnh nặng, lý do bị bỏ là “không có khả năng cùng tham gia cúng giỗ”. Điều này rõ ràng mang tính chất  mượn cớ. 
6. Lắm điều, chỉ người vợ làm ầm ĩ trong lúc không được nói. Lý do là “ly thân”. Thời cổ, việc liên quan trong gia tộc, đều do đàn ông định đoạt, đàn bà bị coi là người ngoài, không cho phép nói xen vào, nếu chõ miệng vào sẽ bị coi là phá hoại sự êm ấm trong gia đình. 
7. Trộm cắp, tức ăn trộm đồ đạc. Lý do là “phản nghĩa” tức vi phạm đạo nghĩa.
          Nội dung của “Thất xuất” vào thời Hán đã hình thành cơ bản, lúc đó gọi là “Thất khứ”, chỉ là quy củ tục lệ dân gian định ước mà thành. Đến đời Đường, thì hình thành chế độ pháp luật, nhưng không nghiêm khắc thực hiện. Từ đời Tống trở đi việc thực hiện mới dần dần nghiêm khắc. 
            Có thế thấy rằng, “Thất xuất” hoàn toàn xuất phát từ lập trường và lợi ích từ phía đàn ông, là một loại pháp luật và tục lệ  bảo vệ quyền lợi nhà chồng, ép buộc người vợ. Nhưng về mặt khác, “Thất xuất” cũng bảo vệ với một mức độ thấp nhất người vợ thời cổ đại, ít nhất thì đàn ông không thể bỏ vợ tùy tiện bằng sự nhận định xấu tốt của cá nhân. 
          “Thất xuất” hầu như xuyên suốt thời đại phong kiến, mãi đến những năm 30 của thế kỷ 20 mới được Chính phủ Quốc dân loại bỏ.

 Nguyễn Văn Chử ST

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

NÊN HIỂU "LỄ VU LAN" NHƯ THẾ NÀO CHO ĐÚNG

Hàng năm vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch khắp nơi đều cử hành lễ Vu lan. Vậy lễ Vu lan là gì ? xin mời xem các nội dung dưới đây:
Điển cố Phật giáo
Theo đạo Phật, ngày 15 tháng 7 Âm lịch, Tín đồ Phật giáo cử hành đại lễ “Vu lan”, cung phụng Phật tổ và chư tăng, tế độ lục đạo khổ nạn chúng sinh và báo đáp công ơn nuôi dạy của cha mẹ.
Theo “Kinh Vu lan bồn”, từ “Vu lan bồn” gọi tắt là “Vu lan” là phiên âm Hán Việt của  “盂蘭盆 (Yúlánpén) mà 盂蘭盆”(Yúlánpén) lại là phiên âm Phạn Hán của từ “ullambana” (Ô-lam-bà-noa) tiếng Phạn mà ra. Bản thân từ "Vu lan bồn" thực chất không có nghĩa gì mà nó mang nghĩa gốc của “ullambana” tiếng Phạn, có nghĩa là “cứu sự treo ngược”.
Đại lễ Vu lan  có nguồn gốc từ truyền thuyết Mục Kiền Liên (gọi tắt là Mục Liên) cứu mẹ. Theo ghi chép của “Kinh Vu Lan bồn” đệ tử  của Thích Ca là Mục Liên, tu được thần thông quảng đại. Tương truyền mẹ Mục Liên khi sống làm nhiều việc xấu, nên sau khi chết biến thành ngạ quỷ (ma đói) vô cùng đau khổ, như bị treo ngược lên. Do thần thông quảng đại nên Mục Liên đã nhìn thấu nỗi khổ của mẹ, liền cầu Phật tổ siêu độ cho mẹ mình, Phật tổ để đến ngày ông cùng chúng tăng kết thúc An cư kiết hạ (ngày 15 tháng 7 Âm lịch) cung dưỡng chúng tăng thập phương, tập trung sức mạnh, cuối cùng đã giải thoát cho mẹ ông. Từ đó, tín đồ Phật giáo bắt đầu làm lễ Vu lan.
Thuyết Đạo giáoTrung Quốc
Ở Trung Quốc, Đạo giáo một năm có 3 lần lễ lớn (gọi là “Tam nguyên”). “Tam nguyên” là cách gọi khác của Tam quan đại đế gồm Thiên quan đại đế, Địa quan đại đế, Thủy quan đại đế. Các ngày 15 tháng Giêng, 15 tháng 7, 15 tháng 10 Âm lịch lần lượt là ngày sinh của Tam quan đại đế.
15 tháng Giêng gọi là Thượng Nguyên, ngày sinh Thiên quan, chủ yếu là cử hành nghi thức tứ phúc. (Thiên quan tứ phúc)
15 tháng 7 gọi là Trung Nguyên, ngày sinh Địa quan, dùng để cúng sá miễn tội lội cho vong hồn (pháp sự Trung nguyên chỉ sá bớt tội, không giải trừ hết tội, mà giảm nhẹ đi, mong các linh hồn sớm yên nghỉ.)
15 tháng 10 gọi là Hạ Nguyên, ngày sinh Thủy quan, giải trừ ách nạn cho người có sự lầm lỗi.
Tương truyền, tháng 7 Âm lịch hàng năm, mở cửa địa ngục cả thánghồn ma ở cõi âm được phóng thích. Những hồn ma có con cháu, hậu nhân thờ cúng thì trở về nhà hưởng hương hỏa cúng dưỡng của gia đình; những hồn ma không ai thờ cúng, gọi là cô hồn dã quỷ thì phiêu dạt khắp nơi để kiếm đồ ăn. Vì vậy tháng 7 Âm lịch, người ta có các hoạt động bày đồ ăn cúng bái bố thí; phổ độ cho cô hồn dã quỷ; cầu lại sự khỏe mạnh, bình an cho gia đình. Nhưng, do việc ngày nào cũng có chè chén say sưa, các cô hồn dã quỷ ẩu đả lẫn nhau, gây nhiều phiền phức; về sau nhiều nơi thống nhất chỉ cử hành lễ phổ độ một ngày gọi là Trung Nguyên chính nhật 15 tháng 7 Âm lịch.
Lễ cúng bái trong dân gian
Khi Phật giáo nhập vào Trung Quốc, đến triều đại nhà Tống có sự hợp lưu giữa Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo, các hoạt động Đại lễ Vu lan nhà Phật, cúng tế linh hồn người chết của tết Trung Nguyên và cúng tế tổ tiên của Nho giáo hợp lại làm một, tạo ra một hệ hoạt động cúng bái tại Trung Quốc và những vùng ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán. Gọi chung là lễ Vu lan.
Ở Việt Nam
Lễ Vu lan thịnh hành ở nhiều nơi, tại các chùa chiền, Tín đồ Phật giáo cử hành đại lễ “Vu lan”, cung phụng Phật tổ và chư tăng, tế độ lục đạo khổ nạn chúng sinh và báo đáp công ơn nuôi dạy của cha mẹ.
 Nhiều gia đình làm lễ Vu lan, việc cúng trước tiên là đến chùa cúng Phật. Đồ cúng tại chùa đều là đồ chay. Sau đó cúng tại gia đình.
Nhưng phần lớn các gia đình chỉ cúng tại nhà chứ không đi cúng chùa. (Thiên về ý nghĩa cúng vong hồn người thân và cô hồn dã quỷ.)
Cúng tại gia đình thì làm hai mâm: cúng tổ tiên tại bàn thờ tổ tiên và cúng chúng sinh (cúng cô hồn) ở ngoài sân hoặc trên vỉa hè phố (nếu đường rộng), thời gian cúng có thể là vào buổi sáng, trưa hoặc chiều; không cúng vào ban tối.
            Mâm cúng tổ tiên, gia đình bày đặt một mâm cỗ mặn, tiền vàng và cả những vật dụng dành cho người cõi Âm làm bằng giấy tượng trưng từ những vật truyền thống (giống như đồ thật) như quần áo, giày dép...
            Mâm cúng chúng sinh thì lễ vật gồm có: quần áo chúng sinh với nhiều màu sắc (xanh đủ màu, vàng, hồng...), các loại bỏng ngô, chè lam, kẹo vừng, kẹo dồi, bánh quế, cháo (ngày xưa cháo này đựng trong lá đa), tiền vàng (ngày nay người ta cúng cả tiền thật), cốc nước lã hoặc rượu, cốc gạo trộn muối (cốc này sẽ được rắc ra vỉa hè hoặc sân nhà về bốn phương tám hướng sau khi cúng xong), ngô, khoai lang luộc…và những lễ vật khác dành cho những cô hồn, ma đói không nơi nương tựa. Khi cúng chúng sinh xong người ta thường gọi những đứa trẻ xung quanh đến rồi cho chúng cùng nhảy vào tranh cướp những vật cúng. Tượng trưng cho những cô hồn. (Ngày xưa sau khi cúng xong hoặc gần xong thì những đứa trẻ đã tranh nhau cướp rồi; bây giờ cúng xong, không có trẻ cướp mà phải đem phân phát).
Đặc biệt là ngày nay các cơ quan, công sở…cũng cúng Rằm tháng 7. (Thiên về ý nghĩa cúng cô hồn, dã quỷ)..
             Như vậy lễ Vu lan nên hiểu theo 2 cách:
            - Lễ Vu lan theo đạo Phật: Cử hành ở các chùa, chủ yếu là cúng Phật, cầu siêu, báo hiếu cho cha mẹ. Lễ vật hoàn toàn là đồ chay.
            - Lễ Vu lan trong dân gian là sự dung hòa giữa lễ Vu lan đạo Phật với truyền thống cúng tế trong dân gian; vừa mang ý nghĩa báo hiếu, vừa mang cả ý nghĩa cầu siêu cho các vong linh của người thân và cô hồn dã quỷ. Phần lớn là cúng ở gia đình. Lễ vật phong phú, đa dạng như đã nói ở trên.
            Do bận bựu về thời gian, có khi người ta không cúng vào đúng ngày Rằm tháng 7, mà có thể cúng muộn hơn. Nhất là những người còn đang công tác, thường là chọn vào ngày thứ bảy hoặc chủ nhật gần nhất sau ngày Rằm tháng 7.
Ngày 5/8/2013
Nguyễn Văn Chử