Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

KHÁCH ĐẾN - Đỗ Phủ

Chữ Hán:
杜甫
舍南舍北皆春水,
但見群鷗日日來。
花徑不曾緣客掃,
蓬門今始為君開。
盤飧市遠無兼味,
樽酒家貧只舊醅。
肯與鄰翁相對飲,
隔籬呼取盡餘杯。
Âm Hán Việt:
KHÁCH CHÍ
Đỗ Phủ
Xá nam xá bắc giai xuân thủy,
Đản kiến quần âu nhật nhật lai.
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo,
Bồng môn kim thử vị quân khai.
Bàn san thị viễn vô kiêm vị,
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi.
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm,
Cách ly hô thủ tận dư bôi.
Tác giả: Đỗ Phủ
Đỗ Phủ (năm 712 – 770) người Hán, tự là Tử Mỹ, sinh ở huyện Củng, Hà Nam (nay là huyện Củng, tỉnh Hà Nam. Là cháu nội của Đỗ Thẩm Ngôn, nhà thơ nổi tiếng đời sơ Đường. Ông sống trong thời kỳ lịch sử triều đình nhà Đường từ thịnh chuyến sang suy, thơ của ông thường viết về tình trạng bất ổn của xã hội, sự đen tối của chính trị, tai ương của dân chúng, được gọi là “Thi sử”. Con người ông lo lắng cho dân, cho nước, nhân cách cao thượng, chất thơ tinh tế, được gọi là “Thi thánh”. Đô Phủ sánh ngang với  Lý Bạch, người đời gọi chung là “Đại Lý Đỗ”. Cốt lõi tư tưởng của ông là sự nhân từ của Khổng giáo.
Đỗ Phủ khéo vận dụng rất nhiều thể chế của thơ ca cổ điển, đồng thời phát triển một cách sáng tạo. Ông là người mở đường cho thể thơ Tân Nhạc phủ. Thơ Nhạc phủ của ông, đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của phong trào Tân Nhạc phủ thời kỳ Trung Đường. Những bài trường cổ thi ngũ thất của ông, vừa là thơ vừa là sử. Đánh dấu thành tựu cao của nghệ thuật thơ ca Trung Quốc. Tác phẩm để đời có “Đỗ công bộ tập”.
Đỗ Phủ mất tại Lồi Dương, thọ 59 tuổi. Sau khi tạ thế, gia nhân vì quá nghèo túng, đành phải tạm đặt linh cữu nhà thơ tại Nhạc Châu (Nhạc Dương, Hồ nam). Đến đời cháu là Đỗ Tự Nghiệp, mới đến Nhạc Châu đem linh thấn về táng tại chân núi Thủ Dương, ở Lạc Dương (Hà Nam), gần mộ của Đỗ Dụ và Đỗ Thẩm Ngôn.
Khi Đỗ Tự Nghiệp đưa linh thấn Đỗ Phủ qua Kinh Châu, có gặp thi sĩ Nguyên Chẩn trên đường đi. Nguyên Chẩn viết một bài minh đề trên mộ Đỗ Phủ, nói rằng: “Từ khi có thi nhân đến giờ, không có ai vĩ đại bằng Đỗ Phủ.
Dịch nghĩa:
KHÁCH* ĐẾN
Phía nam, phía bắc (phía trước, phía sau**) nhà, toàn là nước xuân, chỉ thấy đàn chim âu ngày ngày bay tới. Trước đây chưa từng quét đường hoa cho vị khách nào, bây giờ mới vì bạn mà mở cửa cỏ bồng này. Vì chợ xa, nên bữa ăn không có đủ vị, nhà nghèo, nên chỉ có chén rượu cũ chưa lọc. Thôi đành mời cả lão hàng xóm cùng đối ẩm, cách rào, gọi mang ra hết chén rượu còn lại.
Ghi chú
*"Khách" Trong bài này là chỉ Thôi minh phủ ("minh phủ" nghĩa là gọi "huyện lệnh" được tôn trọng)
Sau tựa đề, Đỗ Phủ tự ghi chú là“喜崔明府相过” - (Hỷ Thôi minh phủ tương quá -Mừng Thôi huyện lệnh ghé chơi)
**Nhà ở của người Trung Quốc luôn là quay lưng về bắc hướng mặt về nam nên phía nam, phía bắc nhà cũng có nghĩa là phía trước, phía sau nhà.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
KHÁCH ĐẾN
Nước xuân tràn ngập bắc nam,
Chim âu ngày vẫn từng đàn sang chơi.
Lối hoa chửa quét vì ai,
Cửa bồng nay mở cho người tri âm.
Chợ xa, nhạt nhẽo bữa ăn,
Nhà nghèo, rượu cũ thôi đành mời nhau.
Với ông hàng xóm tâm giao,
Rượu mang ra hết bên rào cùng say.
Tháng 4/2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét