Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2024

Dịch thơ chữ Hán bài MIẾU VĂN THÁNH của Bùi Cơ Túc, Việt Nam

 Nguyên tác:

文聖廟

裴基肅 (?-?越南)

古樹森森勢垂天

臨雍輦路百年前

龍編不改風聲舊

富美宮牆獨儼然

Dịch thơ:

MIẾU VĂN THÁNH

Bùi Cơ Túc (?-?Việt Nam)

Cổ thụ sum suê rợp khoảng trời,

Nơi đây Nho học đã bao đời.

Long Biên nếp cũ còn nguyên vẹn,

Trang trọng tường vây đẹp tuyệt vời.

Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm:

VĂN THÁNH MIẾU

Bùi Cơ Túc (?-?Việt Nam)

Cổ thụ sâm sâm thế thùy thiên

Lâm Ung liễn lộ bách niên tiền

Long Biên bất cải phong thanh cựu

Phú mỹ cung tường độc nghiễm nhiên.

Dịch nghĩa:

MIẾU VĂN THÁNH

Cây cổ thụ um tùm, thế che lấp trời

Trăm năm trước đã là con đường dẫn đến Nho học

Long Biên không thay đổi nền nếp cổ xưa

Cung tường đẹp đẽ, thật trang nghiêm.

Nguyên chú:

Miếu ở ngoài cửa Tây Nam thành, xây dựng từ thời Lý; có biển đề "Cửa Thái học". Trải các triều đại là trụ sở của Nho giáo. Niên hiệu Gia Long 5 (1806), được trùng tu; trước cửa điện Đại Thành xây Khuê Văn Các, có biển đề "Văn Thánh miếu".

Chú thích:

-Lâm Ung 臨雍: Đến với Bích Ung辟雍. Bích Ung là trường đại học do vua thời Tây Chu xây dựng, chỉ trường đại học cao nhất của triều đình. (NHT)

-Tác giả: Bùi Cơ Túc 裴基肅 (?-?), hiệu là Liên Khê, 蓮溪, quê ở Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Làm quan dưới triều Nguyễn. Tác phẩm: Long Biên bách nhị vịnh 龍編百二詠 (102 bài thơ vịnh Long Biên).

 


Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

Dịch Thơ chữ Hán CẢM TÁC CUỐI XUÂN 暮春感作 Nguyễn Danh Nho(1638 – 1699, Việt Nam)

Qua xuân trời đất ấm lên rồi,

Khí hậu xem ra hợp ý người.

Mưa tạnh đôi bờ non rực rỡ,

Gió ngưng một dải nước xanh ngời.

Trưa vui tựa cửa nghe chim hát

Chiều lặng ra vườn nhặt hoa rơi

Xưa nay cuộc sống là nơi tạm,

Chẳng quản thời gian lặng lẽ trôi.

Nguyễn Văn Chử dịch

Nguyên tác

暮春感作

阮名儒 (1638 1699 越南)

三春向暮正暄和,

晚節宜人稱意多。

兩岸雨晴山有色,

一江風靜水無波。

午窗隱几聽啼鳥,

幽徑擕笻掇落花。

古往今來生若寄,

休論光景逐蹉陀。

Âm Hán Việt

Mộ xuân cảm tác

Nguyễn Danh Nho(1638 – 1699, Việt Nam)

Tam xuân hướng mộ chính huyên hoà,

Vãn tiết nghi nhân xứng ý đa.

Lưỡng ngạn vũ tình sơn hữu sắc,

Nhất giang phong tĩnh thuỷ vô ba.

Ngọ song ẩn kỷ thính đề điểu,

U kính huề cung xuyết lạc hoa.

Cổ vãng kim lai sinh nhược ký,

Hưu luận quang cảnh trục sa đà.

Dịch nghĩa:

CẢM TÁC CUỐI XUÂN

Ba tháng mùa xuân, lúc về cuối chính là lúc ấm áp

Tiết muộn hợp với người, có nhiều điều hài lòng

Hai bờ sông mưa tạnh, núi phô màu sắc

Dòng sông lặng gió, nước không có sóng

Buổi trưa tựa ghế bên cửa sổ nghe chim kêu

Chống gậy lên lối đi tĩnh mịch nhặt hoa rụng

Từ xưa đến nay, cuộc đời như sống gửi

Đừng bàn đến cảnh vật, cứ để thời gian trôi đi.

Chú thích:

- Sinh nhược ký (sống gửi): quan niệm nhà Phật cho rằng cuộc đời con người ở trần thế như sống nhờ, sống gửi, vì nó trôi đi nhanh, thấm thoắt chẳng được là bao. Vì vậy mà nói: sống gửi thác về (sinh ký tử quy).

Tác giả: Nguyễn Danh Nho 阮名儒 (1638 - 1699) hiệu Sằn Hiên 莘軒, người xã Nghĩa Phù, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Ông làm quan chức Bồi tụng Hữu thị lang, tước Nam và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi mất ông được tặng Tả thị lang Bộ Công, tước Tử. Có thơ trong Toàn Việt thi lục.

Thích
Bình luận
Chia sẻ