Thứ Ba, 27 tháng 8, 2024

Dịch Thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến, bài Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

 Nguyên tác chữ Hán:

甲申中秋寓河內有感

寄同年舉人吳(金鼓人)

阮勸 (15/2/1835 - 5/2/1909)

十年此地此中秋,
城郭依依景已殊。
白燭紅燈迷遠近,
素冠青蓋雜誰吾。
蘇江有恨濤聲急,
濃嶺無情夜月孤。
夜禁近聞嚴肅甚,
詩翁曾憶舊遊否?

Dịch thơ:

Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

Nguyễn Khuyến (1835 - 1909)

Chục tết Trung thu ở chốn này,
Tường thành vẫn vậy, cảnh đều thay.
Đèn hồng nến bạch giăng trên dưới,
Mũ trắng lọng xanh lẫn đó đây.
Sóng lớn Tô giang dường giận dữ,
Trăng côi Nùng lĩnh vẻ hao gầy. 
Nghe rằng lệnh cấm đi đêm ngặt,
Bác nhớ cuộc chơi thuở đắm say?

Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm Hán – Việt:

Giáp Thân trung thu ngụ Hà Nội hữu cảm ký đồng niên cử nhân Ngô (Kim Cổ nhân)

Thập niên thử địa, thử trung thu,
Thành quách y y cảnh dĩ thù.
Bạch chúc hồng đăng mê viễn cận,
Tố quan thanh cái tạp thuỳ ngô.
Tô giang hữu hận đào thanh cấp,
Nùng lĩnh vô tình dạ nguyệt cô.
Dạ cấm cận văn nghiêm túc thậm,
Thi ông tằng ức cựu du phầu?

Dịch nghĩa:

Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

Mười năm về trước ta ở nơi đây, cũng tết trung thu này,
Thành quách còn y nguyên, nhưng cảnh đã khác.
Nến trắng, đèn đỏ, lấp loáng như gần như xa,
Mũ trắng, lọng xanh, lẫn lộn ta với người.
Sông Tô như giận, tiếng sóng vỗ dồn dập,
Núi Nùng không có tình, mảnh trăng đêm lẻ loi.
Lệnh cấm đi đêm, gần đây nghe nói gắt gao lắm,
Nhà thơ già có còn nhớ cuộc chơi trước kia không?

Tác giả: Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), quê Hà Nam, sinh tại quê ngoại Nam Định, nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm 1864, ông đỗ đầu cử nhân (tức giải nguyên); đến năm 1871 đỗ hội nguyên và đình nguyên (hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Năm 1873, ông làm làm Đốc học, rồi thăng Án sát tại tỉnh Thanh Hoá. Năm 1877, ông được thăng Bố chính tỉnh Quảng Ngãi, năm sau lại bị giáng chức và điều về Huế, giữ chức quan nhỏ toản tu Quốc sử quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Ông làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực; là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

 





 

 


Thứ Tư, 7 tháng 8, 2024

Dịch thơ chữ Hán bài TỪ LẦU CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM HỒ TÂY của Ngô Thì Sĩ, Việt Nam

Nguyên tác chữ Hán:
西  
吳時仕







 
Dịch thơ:
Từ lầu chùa Trấn Quốc ngắm Hồ Tây
Ngô Thì Sĩ
Trước lầu Lãng Bạc thật bao la,
Nước biếc non xanh trải mượt mà.
Hồ rộng chiều buông cò lẻ bóng,
Đường dài khóm rực sắc muôn hoa.
Chuyện xưa hang cáo cây che phủ,   
Tích cũ thuyền vua khói xóa nhòa.
Thấp thoáng muôn thôn trời chạng vạng,
Thuyền chài mấy chiếc dập dềnh xa.
07/8/2024
Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm Hán – Việt:
Trấn Quốc lâu vọng Tây Hồ
Ngô Thì Sĩ
Lãng bạc tiền lâu hoành vãn diểu
Sơn quang thủy sắc lộng tình nghiêu
Lạc hà cô vụ hồ thiên khoảnh
Xích luyện tùng hoa lộ sổ điều
Hồ quật ngoa truyền dư thảo thúy
Long chu tà sự trục yên tiêu
Thiên thôn yểm ánh tà dương ngoại
Kỷ cá ngư tằng phiếm phiếm diêu.

Dịch nghĩa:
Từ lầu chùa Trấn Quốc ngắm Hồ Tây
Trước lầu hồ Lãng Bạc (Hồ Tây) xa ngắm cảnh chiều
Non xanh nước biếc dưới bầu trời tạnh ráo.
Hồ rộng ngàn mẫu, ráng chiều xuống, cánh cò lẻ loi
Những khóm hoa phô sắc bên mấy con đường
Chuyện hoang đường về hang cáo nay chỉ còn lại màu xanh cây cỏ
Việc huyễn hoặc về thuyền vua đã tiêu tan theo làn sương khói
Nghìn thôn xóm ẩn hiện trong ánh chiều tà
Mấy chiếc thuyền câu bập bềnh nơi xa xa.

Chú thích:
- Hồ quật (hang cáo): Tích Hồ Tây có gò đất, trên có hang cáo 9 đuôi thành tinh , thường hiện thành người để hại dân lành.
- Long chu (thuyền rồng của vua): Theo tích quan Trạng nguyên Lê Văn Thịnh biến thành hổ để dọa vua Lý Nhân Tông, bị phép tôi mưu phản, đày đi xa. Tác giả bài thơ tỏ ý không tin chuyện này.
Tác giả: Ngô Thì Sĩ 吳時仕 (1726 - 1780), là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng dưới thời chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Ông được Phan Huy Chú đánh giá là người "học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia”. Ông thi đỗ Hoàng giáp năm 1766, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê – Trịnh như Đông các hiệu thư, Tham chính Nghệ An, Hiệu lý Viện Hàn lâm kiêm Hiệu chính quốc sử..., để lại nhiều tác phẩm văn học, sử học.
Ngô Thì Sĩ là cha của các danh sĩ Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương và là cha vợ của Phan Huy Ích.