Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

TẠI SAO VIỆT NAM DÙNG CỤM TỪ “TẾT NGUYÊN ĐÁN” ĐỂ CHỈ TẾT ÂM LỊCH

          Cụm từ “Tết Nguyên đán” ở Việt Nam là chỉ tết truyền thống, tết Âm lịch, Tết ta, ngày đầu năm Âm lịch.
          Nhưng元旦 (Nguyên đán tiết) ở Trung Quốc lại là Tết Dương Lịch, Tết Tây, ngày đầu năm Dương lịch
       Tại sao có tình trạng trên? Xin xem giải thích cụ thể dưới đây:

          Nguyên Đán - 元旦 ở Trung Quốc vốn dùng để chỉ ngày mồng Một tháng Giêng của Nông Lịch ( Hạ Lịch hay Âm Lịch).
          “Nguyên” trong “Nguyên Đán” có nghĩa bắt đầu, thứ nhất.
          “ Đán” là chữ tượng hình, Chữ “nhật   ở trên tượng trưng mặt trời, chữ “nhất    ở dưới tượng trưng mặt đất. Nghĩa là mặt trời vừa nhô khỏi mặt đất – một ngày mới bắt đầu.
Người ta ghép hai chữ “nguyên” và “đán  lại với nhau để chỉ nghĩa một ngày bắt đầu của của năm mới.
Từ “Nguyên Đán - 元旦” ở Trung Quốc xuất hiện rất sớm. Ngày Nguyên Đán thời Trung Quốc Cổ Đại không phải là ngày 01 tháng 01 Dương Lịch như Trung Quốc dùng ngày nay.
          Tuy nhiên, ngày, tháng chỉ Nguyên Đán của các Lịch Đại Trung Quốc cũng không thống nhất:
          Thời Ân lấy ngày 01 tháng 12 Âm lịch;
          Thời Hạ lấy ngày 01 tháng Giêng Âm lịch;
          Thời Thương lấy ngày 01 tháng 12 Âm lịch;
          Thời Chu lấy ngày 01 tháng 11 Âm lịch;
          Tần Thủy Hoàng sau khi thống nhất  6 nước, lại lấy ngày 01 tháng 10 ÂL làm Nguyên Đán.
          Đến năm Thái sơ đầu tiên Võ Hán Đế, Tư Mã thiên lập ra “Lịch Thái Sơ” thì lấy ngày 01 tháng Giêng ÂL làm Nguyên Đán giống thời Hạ; cho nên còn gọi là “Hạ lịch”. Dùng mãi cho tới Cách mạng Tân Hợi.
Sau khi lịch Tây (Dương lịch) truyền vào Trung Quốc, từ Nguyên Đán - 元旦được chuyển dùng cho Năm mới Dương lịch. Năm mới truyền thống (Âm Lịch) được gọi là Xuân tiết - 春節.
          Năm 1911, Tôn Trung Sơn lãnh đạo Cách mạng Tân Hợi, lật đổ sự thống trị Mãn Thanh lập nên Trung Hoa Dân Quốc. Đại biểu Đô đốc các Tỉnh dự Hội nghị tại Nam Kinh ra Quyết định sử dụng Công lịch ( Dương lịch, Lịch Tây). Gọi ngày 01 tháng Giêng Âm lịch là Xuân tiết - 春節; gọi ngày 01 tháng 01 Dương lịch là Nguyên Đán - 元旦, nhưng chưa chính thức.
          Đến ngày 01 tháng 01 năm 1912, Tôn Trung Sơn nhậm chức Đại Tổng Thống Lâm thời tại Nam Kinh, mới định ngày 01 tháng Giêng Âm lịch là Xuân tiết - 春節; đổi ngày 01 tháng 01 Dương lịch làm “ Năm mới ” thứ nhất và gọi là Nguyên Đán - 元旦.
          Ngày 27 tháng 9 năm 1949, Hội nghị toàn thể lần thứ nhất Hội nghị hiệp thương chính trị nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đi đến Quyết định: “Kỷ nguyên của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa dùng theo kỷ nguyên Công  lịch” (Tức là Dương lịch mà chúng ta thường gọi).
          Để phân biệt 02 cái “Năm mới” Âm lịch và Dương lịch, đồng thời xét thấy Tiết Lập Xuân trong 24 tiết khí của Âm lịch khớp vào dịp trước hoặc sau của Năm mới Âm lịch, do vậy đổi ngày mồng Một tháng Giêng Âm lịch thành Xuân tiết - 春節, định ngày 01 tháng 01 Dương lịch là Nguyên Đán - 元旦. Và quyết định toàn quốc nghỉ Tết này 01 ngày.

          Tới đây thì chúng ta đã rõ Việt Nam ta vẫn sử dụng từ “tết Nguyên đán” cho tết Âm lịch như cũ không sửa đổi theo Trung Quốc, vì thế có sự khác biệt này.
          Nếu ta dịch “Tết Nguyên đán” sang tiếng Trung Quốc thành 元旦xét về mặt chữ và nghĩa thì đúng, nhưng lại thành sai, mà phải dịch thành春節 (Xuân tiết) mới đúng. Nguyên nhân như đã nói rõ ở trên.

                                                              Tp HCM, 30/12/2011
                                                                 Nguyễn Văn Chử           

TỐNG TỪ

(Chử, sưu tầm)

       Từ là một loại thơ ca cổ của Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ Đời Lương, hình thành vào Đời Đường, và cực thịnh vào Đời Tống. Theo ghi chép của “ Cựu Đường Thư” (旧唐书); “ TKhai Nguyên ( niên hiệu Đường Huyền Tông) trở lại, các ca sĩ tạp dụng các khúc ca trong các ngõ nhỏ Hồ Di.” Do lưu truyền rộng rãi của âm nhạc; trong các đô thị thời đó có rất nhiều những Nhạc sư đào kép mưu sinh bằng nghề biểu diễn ca hát, căn cứ nhu cầu phối hợp nhịp điệu giữa ca từ và âm nhạc, sáng tác hoặc cải biên thành các từ khúc có các câu dài ngắn khác nhau, đây chính là Từ sớm nhất. Từ trong bài Từ Đôn Hoàng khúc tử  có thể nhận thấy, Từ sản sinh trong dân gian có sớm hơn Từ dưới ngòi bút của Văn nhân vài chục năm.
       Đời Đường, Từ trong dân gian đại bộ phận là các đề tài phản ánh về tình yêu đôi lứa, cho nên nó không lọt vào con mắt đại nhã của các Văn nhân, mà còn bị coi là tiểu đạo ngoài thơ. Chỉ có những người chú trọng giới thiệu những sở trường của nghệ thuật dân gian, như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích mới viết ra một số Từ, có phong cách chất phác tự nhiên, tràn đầy khí chất của cuộc sống nhân hậu. Ôn Đình Quân và Ngũ Đại “ Hoa gian phái” nổi tiếng nhờ những câu từ tươi thắm cao thượng mang đậm sắc thái phụ nữ, chiếm vị trí nhất định trong lịch sử phát triển của Từ. Và, các tác phẩm Từ sau khi Nam Đường Lý Hậu chủ bị bắt làm tù binh đã mở ra một ranh giới nghệ thuật sâu lắng mới, truyền luồng sinh khí mãnh liệt cho các Từ khách hậu thế.
       Đến Đời Tống, thông qua đột phá mạnh về mặt sáng tác của Liễu Vịnh và Tô Thức, Từ đã được phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức. Cho dù về mặt ngôn ngữ Từ chịu ảnh hưởng về thi tác của các văn nhân, nhưng cái thời thượng gọt dũa tao nhã cũng không hề thay thế cho cái phong cách dân gian thông tục. Mà hình thức câu ngắn câu dài của Từ lại rất dễ biểu lộ tình cảm, cho nên cách nói “ Thi manh chí, Từ trữ tình” (诗盲志, 词抒情) là có căn cứ nhất định.
       Từ, về đại thể có thể chia ra thành Phái hàm súc và Phái khoáng đạt (Uyển ước phái, Hào phóng phái). Từ của Phái hàm súc, có phong cách tao nhã uyển chuyển, khúc tận tình thái; như các câu nổi tiếng: “Kim tiêu tửu tỉnh hà sứ? Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt” của Liễu Vịnh; “Vô khả nại hà hoa lạc khứ, tựa tằng tương thức nhạn quy lai” của Yên Thù; “ Vũ đê dương liễu lâu tâm nguyệt, ca tận đào hoa phiến để phong” của Yên Kỷ Đạo, không thẹn là những kiệt tác trữ tình hoà quện giữa tình và cảnh. Những tác phẩm của Phái khoáng đạt thì bắt đầu  từ Từ Thức. Ông đã đem Từ phát triển thành một mảng nghệ thuật trữ tình độc lập. Danh lam thắng cảnh của đất nước, cảnh tượng quê hương, cuộc sống thanh bình, nhàn nhã, chí lớn báo quốc, trong tay ông đều trở thành đề tài của Từ, làm cho Từ trên con đường đẹp đẽ đi vào cuộc sống của quảng đại quần chúng. Từ góc độ hứng thú của các độc giả ngày nay trong chúng ta mà nói, những tác phẩm của Phái khoáng đạt đại loại như “ Đại giang Đông khứ” thì càng dễ tiếp thụ.
      Từ về mặt hình thức có thể chia thành Tiểu lệnh (trong khoảng 58 chữ), Trung điệu (59-90 chữ) và Trường điệu (trên 91 chữ, Từ dài nhất tới 240 chữ). Một bài Từ, có khi chỉ có 1 đoạn, gọi là đơn điệu; có khi có 2 đoạn, gọi là song điệu; có khi có 3 đoạn hoặc 4 đoạn gọi là tam điệp hoặc tứ điệp.
Tên điệu Từ ( Từ bài).  Tên điệu Từ nảy sinh đại thể có mấy loại tình huống sau: Mượn dùng tên của nhạc khúc hoặc tựa đề thơ nhạc phủ cổ đại; như  “Lục châu ca đầu”; lấy mấy chữ trong câu thơ từ của danh nhân, như “Tây giang nguyệt”; theo một nhân vật hoặc điển cố lịch sử, như “Niệm nô kiều”; còn có loại tên điệu Từ do danh gia tự đặt. Từ phát triển về sau dần dần tách rời khỏi âm nhạc, và trở thành một thể văn độc lập.
TpHCM 13/7/2009 NVC

       *Từ là một loại thơ ca cổ của Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ Đời Lương, hình thành vào Đời Đường, và cực thịnh vào Đời Tống, nên người ta quen gọi là Tống từ.
        Dưới dây tôi phỏng dịch một bài từ theo điệu Đạp xa hành của ông Lương Nam Xương gửi cho tôi từ Ái – Nhĩ – lan: 
                        
                               踏莎行

頻頻遠行                                古今硕果
橫跨亚欧                                奋勉有道
漫漫旅途看两洲                     得知乃源必珍
观瞻天下兴与衰                     前程似锦多绚烂
繁荣冷落藏根由                     力争上游志不休
                      于爱尔兰零八年秋 梁南昌
                                 
                                         Đạp sa hành
                                           (Âm Hán Việt)
Tần tần viễn hành                                         Cổ kim thạc quả
Hoành khoa Á Âu                                         Phấn miễn hữu đạo
Mạn mạn lữ đồ khán lưỡng châu                  Đắc tri nãi nguyên tất châm bảo
Quan chiêm thiên hạ hưng dữ thoái             Tiền trình tự cẩm đa huyền lan
Phồn vinh lãnh lạc tàng căn do                    Lực tranh thượng du trí bất hưu

                            Vu Ái Nhĩ Lan Linh bát niên thu Lương Nam Xương

                                         Bài dịch:
                              Đạp sa hành

Những chuyến đi xa
Băng qua Âu, Á
Xuyên hai Châu ta đều thấy cả
Khắp thiên hạ thịnh, suy; sướng, khổ
Có nguyên do tiềm ẩn bên trong

Quả ngọt xưa nay
Nào được trời ban
Cội nguồn quý phải gìn giữ lấy
Tương lai tựa gấm hoa sáng chói
Hãy vươn lên chớ có nản lòng.

Tp HCM 01/7/09
Chử.

KHÓC MẸ

敬母蘇如聰
(1917.07.10 -2010.07.09)
Khóc mẹ Tô Như Thông
(10.07.1917- 09.07.2010)

母心若春輝
孩兒如寸草
寸草芳萋萋
深得春輝照
春輝曜万里
母心比天高
匆匆母遠去
溢溢涌伤潮
此別母歸仙
永安樂悠悠
于山西市2010/07/09 
长男梁南昌痛笔

Mẹ là ánh nắng xuân
Con là mầm cỏ mượt
Cỏ thơm mọc xanh mướt
Nhờ có nắng xuân soi
Nắng xuân trải muôn nơi
Lòng mẹ tựa biển trời
Mẹ vội đi xa rồi
Con trào dâng thương tiếc
Thôi từ nay cách biệt
Mẹ về với cõi tiên.

Sơn Tây, ngày  09/7/2010
Trưởng nam, Lương Nam Xương
Bài thơ này là do tác giả Lương Nam Xương (anh ruột của Lương Lý Mai bạn học lớp T69, Khoa Trung văn, ĐHNN của chúng tôi); khóc mẹ mất ngày 9/7/2010 tại Sơn Tây, Việt Nam; tôi đã rất cảm động và dịch lúc 10h tối 12/7/2010 tại TPHCM.

NHỚ MÃI LÂM XUYÊN

            Xuân Tân Mão 2011, tôi về Hội làng, ngỡ ngàng trước sự đổi thay đi lên của quê nhà, đã cảm xúc viết lên bài thơ này tặng quê tôi – tặng người con gái quê tôi, những lứa tuổi U 16, 17 của 40 năm trước. (Quê tôi là thôn Lâm Xuyên, hay còn gọi là làng Quao thuộc xã Phú Điền, huyện Nam Sách, Hải Dương.)

Em là con gái Lâm Xuyên,
Đẹp người đẹp nết lại thêm duyên thầm.
Anh đi trăm núi ngàn sông,
Vẫn không quên được bóng Hồng thuở xưa.
Ngày ngày chỉ một ước mơ,
Được về quê cũ, được chờ gặp nhau,
Bên rào dâm bụt, hàng cau,
Mưa Xuân rắc xuống mái đầu hai ta,
Hương hoa bưởi ngát đầu nhà,
Hoa xoan tím trải đậm đà tình quê.
*
*    *
Hội làng năm nay anh về,
Chìm trong nhn nhịp say mê lòng người.
Quê mình đã đổi mới rồi,
Làng văn hóa của đất trời Việt Nam.
Trong ngần tiếng hát của em,
Để anh nhớ mãi Lâm Xuyên quê mình.

 Xuân Tân Mão 2011
Nguyễn Văn Chử
------------------------------------

HÃY CỨU SÔNG QUAO


(Tiếng kêu cứu của dòng sông quê hương)
Là người con của quê hương, tôi đau lòng trước sự sắp mất đi của sông Quao.
Xin gửi lại bài thơ này cho quê hương...
(làng Quao tức thôn Lâm Xuyên, xã Phú Điền, Nam Sách, Hải Dương):
 
Thuở xưa còn nhớ sông Quao
Nước trong xanh chảy ra vào mến thương
Trong tôi sông tựa thiên đường
Bao nhiêu kỷ niệm vấn vương tình người
Hè về sông rộn tiếng cười
Mở dòng nước mát ôm tôi vào lòng
*
*   *
Tôi đi theo kiếp long đong
Mang theo ký ức dòng sông quê nhà
Trải bao nhiêu năm bôn ba
Trở về sông bỗng khóc oà gọi tôi
Giật mình tôi thấy rợn người
Trời ơi, sông nhiễm độc rồi còn đâu
Lặng người đứng nơi đầu cầu
Mắt tôi rướm máu, quặn đau trong lòng
*
*   *
Người ơi, hãy cứu dòng sông!

                                                Quao. 11-2012