Thứ Ba, 15 tháng 4, 2014

CHƠI THÔN TRIỆU XEM HOA HẠNH - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
游趙村杏花
白居易
趙村紅杏每年開,
十五年來看幾回。
七十三人難再到
今春來是别花來
Âm Hán Việt:
DU TRIỆU THÔN HẠNH HOA
Bạch Cư Dị
Triệu thôn hồng hạnh mỗi niên khai,
Thập ngũ niên lai khán kỷ hồi.
Thất thập tam nhân nan tái đáo,
Kim xuân lai thị biệt hoa lai.

Tác giả: Bạch Cư Dị
Bạch Cư Dị  (772-846), tự là Lạc Thiên, hiệu là Hương Sơn cư sĩ là nhà thơ nổi tiếng thời nhà Đường Trung Quốc. Sinh năm thứ 7 niên hiệu Đại Lịch đời Đường Đại tông, tại huyện Tân Trịnh (tỉnh Hà Nam, TQ). Tổ tiên ông là người gốc Thái Nguyên, Sơn Tây. Đậu Tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 16. Làm quan đến chức Hiệu Thư Lang, Tán thiện Đại phu, sau vì vụ Tể tướng Võ Nguyên Hành, bị biếm ra làm Tư Mã Giang Châu. Giữa năm Trường Khánh (821 – 824) Nhậm Thứ sử Hàng Châu, năm thứ 2 Bảo Lịch (825), nhậm Thứ sử Tô Châu, rồi nhậm Thái tử thiếu phó. Năm Hội Xương thứ 2 (842) về hưu với hàm thượng thư bộ Hình. Sau mất vào năm  thứ 6 niên hiệu Hội Xương Võ tông tại Hương Sơn, Lạc Dương, thọ 75 tuổi.
Danh tiếng của ông ngang với Lý Bạch (701-762), Đỗ Phủ (712-770) và còn được mệnh danh là "thi tiên". Tác phẩm để lại gồm 3840 bài thơ văn (theo Trần Trọng San).

Dịch nghĩa:
CHƠI THÔN TRIỆU XEM  HOA HẠNH
Hoa hạnh đỏ thôn Triệu mỗi năm đều nở, trong mười lăm năm ta đã ngắm bao lần.
Bảy mươi ba tuổi rồi, khó có thể lại đến được, năm nay đến đây để từ biệt với hoa.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
CHƠI THÔN TRIỆU XEM  HOA HẠNH
Hạnh hồng thôn Triệu nở đều,
Mười lăm năm ngắm bao nhiêu lần rồi.
Bảy ba tuổi khó lại chơi,
Xuân này đến để nói lời biệt ly.
Tp HCM 4/2014



Thứ Năm, 10 tháng 4, 2014

"THÙNG THƯ" SỚM NHẤT TRÊN THẾ GIỚI

Trước khi kênh đào Suez được khai thông, tầu thuyền từ nước Anh tới Ấn Độ phải vòng qua mũi Hảo Vọng, hành trình sóng gió nguy hiểm, thời gian tiêu tốn khoảng 6 tháng. Do thời gian đi khá dài, các thuyền viên mong muốn gửi về cho người thân lá thư bình yên, nhưng khó gặp được tàu bè trở về nước Anh. Thế là, họ hẹn định khắc trên một hòn đá to của mũi Hảo Vọng hàng chữ “Xin hãy tìm thư phía dưới”. Đồng thời, tất cả các tàu thuyền đi hướng Ấn Độ đều dừng đậu tại nơi này, các thuyền viên đem thư gửi về nhà để vào dưới phiến đá, rồi tất cả các tàu thuyền về Anh cũng cử người lên bờ tại đó, lấy các thư phía dưới hòn đá mang về nước Anh.

Về sau, mọi người gọi hòn đá tó đó là “thùng thư” sớm nhất trên thế giới. Hòn đá to này hiện đang được lưu giữ tại Viện bảo tàng Cape Town, làm vật kỷ niệm lịch sử.
NVC sưu tầm.

Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014

GẶP LÝ QUY NIÊN TẠI GIANG NAM - Đỗ Phủ

Chữ Hán:
江南逢李龜年
杜甫
岐王宅裏尋常見, 
崔九堂前幾度聞。
 
正是江南好風景,
 
落花時節又逢君。
Âm Hán Việt:
GIANG NAM PHÙNG LÝ QUY NIÊN
Đỗ Phủ

Kỳ vương trạch lý tầm thường kiến,
Thôi Cửu đường tiền kỷ độ văn.
Chính thị Giang Nam hảo phong cảnh,
Lạc hoa thời tiết hựu phùng quân.
Ghi chú:
Lý Quy Niên: là một nhạc công, được Đường Minh Hoàng sủng ái, về sau lưu lạc tại vùng Giang Nam.
Kỳ vương: là Kỳ vương Lý Phạm, công thần của Đường Huyền tông, hiếu học và trọng tài văn.
Thôi Cửu: tức Thôi Điểu, một sủng thần của Đường Huyền tông.
Dịch nghĩa:     
GẶP LÝ QUY NIÊN TẠI GIANG NAM
 (Ngày trước, tại Trường An), tôi thường gặp ông ở nhà của Kỳ vương, lại được nghe danh ông mấy lần trước nhà Thôi Cửu. Bây giở, chính ở nơi phong cảnh đẹp nhất Giang Nam này, giữa mùa hoa rụng, tôi lại gặp ông.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
GẶP LÝ QUY NIÊN TẠI GIANG NAM
Biết nhau ở phủ Kỳ vương,
Tại nhà Thôi Cửu đã tường tận danh.
Đương mùa cảnh đẹp Giang Nam,
Gặp người giữa tiết muôn vàn hoa rơi.
TP HCM 03/4/2014

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

KHÁCH ĐẾN - Đỗ Phủ

Chữ Hán:
杜甫
舍南舍北皆春水,
但見群鷗日日來。
花徑不曾緣客掃,
蓬門今始為君開。
盤飧市遠無兼味,
樽酒家貧只舊醅。
肯與鄰翁相對飲,
隔籬呼取盡餘杯。
Âm Hán Việt:
KHÁCH CHÍ
Đỗ Phủ
Xá nam xá bắc giai xuân thủy,
Đản kiến quần âu nhật nhật lai.
Hoa kính bất tằng duyên khách tảo,
Bồng môn kim thử vị quân khai.
Bàn san thị viễn vô kiêm vị,
Tôn tửu gia bần chỉ cựu phôi.
Khẳng dữ lân ông tương đối ẩm,
Cách ly hô thủ tận dư bôi.
Tác giả: Đỗ Phủ
Đỗ Phủ (năm 712 – 770) người Hán, tự là Tử Mỹ, sinh ở huyện Củng, Hà Nam (nay là huyện Củng, tỉnh Hà Nam. Là cháu nội của Đỗ Thẩm Ngôn, nhà thơ nổi tiếng đời sơ Đường. Ông sống trong thời kỳ lịch sử triều đình nhà Đường từ thịnh chuyến sang suy, thơ của ông thường viết về tình trạng bất ổn của xã hội, sự đen tối của chính trị, tai ương của dân chúng, được gọi là “Thi sử”. Con người ông lo lắng cho dân, cho nước, nhân cách cao thượng, chất thơ tinh tế, được gọi là “Thi thánh”. Đô Phủ sánh ngang với  Lý Bạch, người đời gọi chung là “Đại Lý Đỗ”. Cốt lõi tư tưởng của ông là sự nhân từ của Khổng giáo.
Đỗ Phủ khéo vận dụng rất nhiều thể chế của thơ ca cổ điển, đồng thời phát triển một cách sáng tạo. Ông là người mở đường cho thể thơ Tân Nhạc phủ. Thơ Nhạc phủ của ông, đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của phong trào Tân Nhạc phủ thời kỳ Trung Đường. Những bài trường cổ thi ngũ thất của ông, vừa là thơ vừa là sử. Đánh dấu thành tựu cao của nghệ thuật thơ ca Trung Quốc. Tác phẩm để đời có “Đỗ công bộ tập”.
Đỗ Phủ mất tại Lồi Dương, thọ 59 tuổi. Sau khi tạ thế, gia nhân vì quá nghèo túng, đành phải tạm đặt linh cữu nhà thơ tại Nhạc Châu (Nhạc Dương, Hồ nam). Đến đời cháu là Đỗ Tự Nghiệp, mới đến Nhạc Châu đem linh thấn về táng tại chân núi Thủ Dương, ở Lạc Dương (Hà Nam), gần mộ của Đỗ Dụ và Đỗ Thẩm Ngôn.
Khi Đỗ Tự Nghiệp đưa linh thấn Đỗ Phủ qua Kinh Châu, có gặp thi sĩ Nguyên Chẩn trên đường đi. Nguyên Chẩn viết một bài minh đề trên mộ Đỗ Phủ, nói rằng: “Từ khi có thi nhân đến giờ, không có ai vĩ đại bằng Đỗ Phủ.
Dịch nghĩa:
KHÁCH* ĐẾN
Phía nam, phía bắc (phía trước, phía sau**) nhà, toàn là nước xuân, chỉ thấy đàn chim âu ngày ngày bay tới. Trước đây chưa từng quét đường hoa cho vị khách nào, bây giờ mới vì bạn mà mở cửa cỏ bồng này. Vì chợ xa, nên bữa ăn không có đủ vị, nhà nghèo, nên chỉ có chén rượu cũ chưa lọc. Thôi đành mời cả lão hàng xóm cùng đối ẩm, cách rào, gọi mang ra hết chén rượu còn lại.
Ghi chú
*"Khách" Trong bài này là chỉ Thôi minh phủ ("minh phủ" nghĩa là gọi "huyện lệnh" được tôn trọng)
Sau tựa đề, Đỗ Phủ tự ghi chú là“喜崔明府相过” - (Hỷ Thôi minh phủ tương quá -Mừng Thôi huyện lệnh ghé chơi)
**Nhà ở của người Trung Quốc luôn là quay lưng về bắc hướng mặt về nam nên phía nam, phía bắc nhà cũng có nghĩa là phía trước, phía sau nhà.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
KHÁCH ĐẾN
Nước xuân tràn ngập bắc nam,
Chim âu ngày vẫn từng đàn sang chơi.
Lối hoa chửa quét vì ai,
Cửa bồng nay mở cho người tri âm.
Chợ xa, nhạt nhẽo bữa ăn,
Nhà nghèo, rượu cũ thôi đành mời nhau.
Với ông hàng xóm tâm giao,
Rượu mang ra hết bên rào cùng say.
Tháng 4/2014