Thứ Năm, 21 tháng 2, 2013

TỐNG TỪ

(Chử, sưu tầm)

       Từ là một loại thơ ca cổ của Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ Đời Lương, hình thành vào Đời Đường, và cực thịnh vào Đời Tống. Theo ghi chép của “ Cựu Đường Thư” (旧唐书); “ TKhai Nguyên ( niên hiệu Đường Huyền Tông) trở lại, các ca sĩ tạp dụng các khúc ca trong các ngõ nhỏ Hồ Di.” Do lưu truyền rộng rãi của âm nhạc; trong các đô thị thời đó có rất nhiều những Nhạc sư đào kép mưu sinh bằng nghề biểu diễn ca hát, căn cứ nhu cầu phối hợp nhịp điệu giữa ca từ và âm nhạc, sáng tác hoặc cải biên thành các từ khúc có các câu dài ngắn khác nhau, đây chính là Từ sớm nhất. Từ trong bài Từ Đôn Hoàng khúc tử  có thể nhận thấy, Từ sản sinh trong dân gian có sớm hơn Từ dưới ngòi bút của Văn nhân vài chục năm.
       Đời Đường, Từ trong dân gian đại bộ phận là các đề tài phản ánh về tình yêu đôi lứa, cho nên nó không lọt vào con mắt đại nhã của các Văn nhân, mà còn bị coi là tiểu đạo ngoài thơ. Chỉ có những người chú trọng giới thiệu những sở trường của nghệ thuật dân gian, như Bạch Cư Dị, Lưu Vũ Tích mới viết ra một số Từ, có phong cách chất phác tự nhiên, tràn đầy khí chất của cuộc sống nhân hậu. Ôn Đình Quân và Ngũ Đại “ Hoa gian phái” nổi tiếng nhờ những câu từ tươi thắm cao thượng mang đậm sắc thái phụ nữ, chiếm vị trí nhất định trong lịch sử phát triển của Từ. Và, các tác phẩm Từ sau khi Nam Đường Lý Hậu chủ bị bắt làm tù binh đã mở ra một ranh giới nghệ thuật sâu lắng mới, truyền luồng sinh khí mãnh liệt cho các Từ khách hậu thế.
       Đến Đời Tống, thông qua đột phá mạnh về mặt sáng tác của Liễu Vịnh và Tô Thức, Từ đã được phát triển mạnh cả về nội dung và hình thức. Cho dù về mặt ngôn ngữ Từ chịu ảnh hưởng về thi tác của các văn nhân, nhưng cái thời thượng gọt dũa tao nhã cũng không hề thay thế cho cái phong cách dân gian thông tục. Mà hình thức câu ngắn câu dài của Từ lại rất dễ biểu lộ tình cảm, cho nên cách nói “ Thi manh chí, Từ trữ tình” (诗盲志, 词抒情) là có căn cứ nhất định.
       Từ, về đại thể có thể chia ra thành Phái hàm súc và Phái khoáng đạt (Uyển ước phái, Hào phóng phái). Từ của Phái hàm súc, có phong cách tao nhã uyển chuyển, khúc tận tình thái; như các câu nổi tiếng: “Kim tiêu tửu tỉnh hà sứ? Dương liễu ngạn, hiểu phong tàn nguyệt” của Liễu Vịnh; “Vô khả nại hà hoa lạc khứ, tựa tằng tương thức nhạn quy lai” của Yên Thù; “ Vũ đê dương liễu lâu tâm nguyệt, ca tận đào hoa phiến để phong” của Yên Kỷ Đạo, không thẹn là những kiệt tác trữ tình hoà quện giữa tình và cảnh. Những tác phẩm của Phái khoáng đạt thì bắt đầu  từ Từ Thức. Ông đã đem Từ phát triển thành một mảng nghệ thuật trữ tình độc lập. Danh lam thắng cảnh của đất nước, cảnh tượng quê hương, cuộc sống thanh bình, nhàn nhã, chí lớn báo quốc, trong tay ông đều trở thành đề tài của Từ, làm cho Từ trên con đường đẹp đẽ đi vào cuộc sống của quảng đại quần chúng. Từ góc độ hứng thú của các độc giả ngày nay trong chúng ta mà nói, những tác phẩm của Phái khoáng đạt đại loại như “ Đại giang Đông khứ” thì càng dễ tiếp thụ.
      Từ về mặt hình thức có thể chia thành Tiểu lệnh (trong khoảng 58 chữ), Trung điệu (59-90 chữ) và Trường điệu (trên 91 chữ, Từ dài nhất tới 240 chữ). Một bài Từ, có khi chỉ có 1 đoạn, gọi là đơn điệu; có khi có 2 đoạn, gọi là song điệu; có khi có 3 đoạn hoặc 4 đoạn gọi là tam điệp hoặc tứ điệp.
Tên điệu Từ ( Từ bài).  Tên điệu Từ nảy sinh đại thể có mấy loại tình huống sau: Mượn dùng tên của nhạc khúc hoặc tựa đề thơ nhạc phủ cổ đại; như  “Lục châu ca đầu”; lấy mấy chữ trong câu thơ từ của danh nhân, như “Tây giang nguyệt”; theo một nhân vật hoặc điển cố lịch sử, như “Niệm nô kiều”; còn có loại tên điệu Từ do danh gia tự đặt. Từ phát triển về sau dần dần tách rời khỏi âm nhạc, và trở thành một thể văn độc lập.
TpHCM 13/7/2009 NVC

       *Từ là một loại thơ ca cổ của Trung Quốc. Nó bắt nguồn từ Đời Lương, hình thành vào Đời Đường, và cực thịnh vào Đời Tống, nên người ta quen gọi là Tống từ.
        Dưới dây tôi phỏng dịch một bài từ theo điệu Đạp xa hành của ông Lương Nam Xương gửi cho tôi từ Ái – Nhĩ – lan: 
                        
                               踏莎行

頻頻遠行                                古今硕果
橫跨亚欧                                奋勉有道
漫漫旅途看两洲                     得知乃源必珍
观瞻天下兴与衰                     前程似锦多绚烂
繁荣冷落藏根由                     力争上游志不休
                      于爱尔兰零八年秋 梁南昌
                                 
                                         Đạp sa hành
                                           (Âm Hán Việt)
Tần tần viễn hành                                         Cổ kim thạc quả
Hoành khoa Á Âu                                         Phấn miễn hữu đạo
Mạn mạn lữ đồ khán lưỡng châu                  Đắc tri nãi nguyên tất châm bảo
Quan chiêm thiên hạ hưng dữ thoái             Tiền trình tự cẩm đa huyền lan
Phồn vinh lãnh lạc tàng căn do                    Lực tranh thượng du trí bất hưu

                            Vu Ái Nhĩ Lan Linh bát niên thu Lương Nam Xương

                                         Bài dịch:
                              Đạp sa hành

Những chuyến đi xa
Băng qua Âu, Á
Xuyên hai Châu ta đều thấy cả
Khắp thiên hạ thịnh, suy; sướng, khổ
Có nguyên do tiềm ẩn bên trong

Quả ngọt xưa nay
Nào được trời ban
Cội nguồn quý phải gìn giữ lấy
Tương lai tựa gấm hoa sáng chói
Hãy vươn lên chớ có nản lòng.

Tp HCM 01/7/09
Chử.

2 nhận xét:

  1. làm ơn cho em hỏi, giai đoạn này vì sao tống từ lại viết nhiều về Chu Du và Tôn Quyền

    Trả lờiXóa
  2. Rất tiếc là mình không có tư liệu.
    Khi nào sưu tầm được sẽ trả lời sau.

    Trả lờiXóa