Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2013

ĐẾN CHƠI THÔN TRANG NGƯỜI BẠN CŨ - Mạnh Hạo Nhiên


Chữ  Hán:
過故人莊
孟浩然
故人具雞黍,
邀我至田家。
綠樹村邊合,
青山郭外斜。
開軒面場圃,
把酒話桑麻。
待到重陽日,
還來就菊花。
Âm Hán Việt:
QUÁ CỐ NHÂN TRANG
Mạnh Hạo Nhiên
Cố nhân cụ kê thử,
Yêu ngã chí điền gia.
Lục thụ thôn biên hợp,
Thanh sơn quách ngoại tà.
Khai hiên diện trường phố,
Bả tửu thoại tang ma.
Đãi đáo Trùng dương nhật,
Hoàn lai tựu cúc hoa.


Dịch nghĩa:
ĐẾN CHƠI THÔN TRANG NGƯỜI BẠN CŨ
Bạn cũ có đủ gà, kê nếp, mời ta đến chơi ở nhà quê chất phác.
Cây xanh bao quanh thôn xóm, núi biếc nghiêng mờ xa xa.
Mở cửa sổ trông ra ngoài hiên, vườn rộng rãi, cùng uống rượu nói chuyện trồng dâu, trồng đay.
Hẹn đến tiết Trùng Dương này, lại về cùng uống rượu hoa cúc với nhau.




 Tác giả:
            Mạnh Hạo Nhiên ( năm 689 ~ 740) thi nhân đời Đường. Là người Tương Dương, Tương Châu, (nay là Tương Phàn Hồ Bắc), người đời gọi ông là Mạnh Tương Dương. Nửa đời trước chủ yếu phục vụ người nhà đọc sách, lấy thơ làm vui. Từng ẩn cư ở Lộc Môn Sơn. 40 tuổi  ngao du Kinh Đô, thi tiến sĩ không đậu, trở về Tương Dương. Khi ở Trường an, kết bạn với Trương Cửu Linh, Vương Duy rất chân thành. Sau ngao du Ngô Việt, đi khắp mọi nơi để tiêu khiển sự thất ý trong con đường làm quan. Do ăn uống thỏa thích, ăn đồ sống sinh bệnh chết.
Thơ ca của Mạnh Hạo nhiên phần lớn là các bài ngắn ngũ ngôn, đề tài không rộng, viết nhiều về nội dung sơn thủy điền viên và ẩn dật, du lịch. Thơ ông tuy không nằm vào cảnh giới của thơ vương, nhưng về mặt nghệ thuật có sự gọt giũa đặc sắc. Sau Đào Uyên Minh, Tạ Linh Vận…là tiếng nói tiên phong cho phái thơ sơn thủy điền viên đời Đường. “Mạnh Hạo Nhiên tập” hiện lưu hành, thu tập 263 bài, nhưng có sửa chữa tác phẩm của người khác. Giới thơ gọi ông là “Thi tinh”.

Ghi chú:
1/ Chữ (trang): ở đây có nghĩa là “thôn trang”, “thôn quê” hay "làng quê". Có người dịch là “trang trại” thì không đúng.
2/ 就菊花 (tựu cúc hoa): có nghĩa là uống rượu hoa cúc vì lẽ ứng với câu trên "hẹn đến tết Trùng Dương..." (còn gọi là tết Trùng Cửu, tức ngày 9 tháng 9 Âm lịch; trong Kinh dịch số 9 tượng trưng cho số dương nên gọi là tết Trùng Dương).  Xuất phát từ tích “tết Trùng Cửu”.  Đời Đông Hán có Hoàng Cảnh người Nhữ Nam theo học đạo tiên với Phí Trường Phòng. Một hôm Trường Phòng bảo Cảnh: " Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn". Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy. Quả thực đến tối trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị dịch chết hết.
Về sau hằng năm, đến ngày mồng 9 tháng 9, người ta bỏ nhà tạm lên núi, uống rượu hoa cúc, lánh nạn... Lâu đời thành tục gọi là Tết Trùng Cửu. Sau dần thay đổi tính chất, Tết Trùng Cửu lại dành riêng cho tao nhân mặc khách lên núi uống rượu làm thơ. Cũng có khi lại dành riêng để làm ngày lễ kính thọ các bậc cao niên.
Vì thế,  就菊花 (tựu cúc hoa): có người dịch thành ngắm cúc nở vàng là không chuẩn.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐẾN CHƠI THÔN TRANG NGƯỜI BẠN CŨ
Bạn thơ sẵn có nếp, gà,
Mời ta thư thả về nhà quê chơi.
Khắp thôn cây cối tốt tươi,
Non xanh tô điểm chân trời xa xa.
Ngoài hiên vườn rộng bao la,
Chén vui chuyện phiếm trồng cà, trồng dâu.
Trùng Dương này lại hẹn nhau,
Say hương rượu cúc dốc bầu chuyện quê.
Tháng 7/2013

KIM LŨ Y (ÁO TƠ VÀNG) - Đỗ Thu Nương

Ch Hán:
杜秋娘
勸君莫惜金縷衣
勸君惜取少年時。
花開堪折直須折,
莫待無花空折枝。

Âm Hán Việt:
KIM LŨ Y
Đỗ Thu Nương
Khuyến quân mạc tích kim lũ y,
Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì.
Hoa khai kham chiết trực tu chiết,
Mạc đãi vô hoa không chiết chi.

Tác giả:
Đỗ Thu người đời sau quen gọi là Đỗ Thu Nương (không rõ năm sinh, năm mất) là người Kim Lăng (tỉnh Giang Tô) đời Đường. Nổi tiếng vào quãng giữa TK8 và TK9. Năm 15 tuổi làm thiếp của Lý Kỳ, tông thất nhà Đường. Sau Lý Kỳ mưu phản bị giết. Đỗ Thu Nương được Hiến Tông sủng ái thu nạp vào cung. Khi Mục Tông kế vị, cử bà dạy học cho Hoàng tử. Sau được ban về quê, già yếu không nơi nương tựa…
Bài thơ “Kim lũ y (áo tơ vàng)” thường được Lý Kỳ ngâm nga. Người ta không rõ bài thất tuyệt này là của ai, nhưng hậu thế quy nạp về cho tác phẩm của Đỗ Thu Nương. Bài thơ cảnh báo những người trẻ tuổi phải biết quý tuổi xuân, không lãng phí thời gian, nếu không hậu quả sẽ rất bi thảm. Đỗ Mục có soạn tập “Đỗ Thu Nương thi”.
Ghi chú: Kim lũ y (áo tơ vàng) là loại trang phục quý có kim tuyến, ẩn dụ sự vinh hoa phú quý.

Dịch nghĩa:
ÁO TƠ VÀNG
Khuyên chàng chớ tiếc áo tơ vàng quý giá làm gì,  
hãy tiếc và yêu quý thời trẻ trung tươi sáng.
Hoa nở đương độ đẹp thì phải bẻ ngay, 
để khi xuân tàn hoa rụng rồi, chỉ bẻ được cái cành không.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ÁO TƠ VÀNG
Tiếc chi chiếc áo tơ vàng,
Có chăng hãy tiếc lúc chàng tuổi xuân.
Hoa đương đẹp hãy bẻ luôn,
Chớ đừng rước phải cành buồn không hoa.

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

THƠ ĐƯỜNG VỚI LỤC BÁT (tiếp)

Chữ Hán:
登鹳雀楼
王之渙
白日依山尽
黄河入海流
欲穷千里目
更上一层楼
Âm Hán Việt:
ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU
Vương Chi Hoán
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Dịch nghĩa:
LÊN LẦU QUÁN TƯỚC
Mặt trời xuống đã tựa vào núi; sông Hoàng chảy vào biển cả. Muốn phóng tầm mắt trông xa ngàn dặm, hãy lên thêm một tầng lầu nữa.



Dịch thơ: 
Trần Trọng San dịch, Thơ Đường, Nxb Thanh Hóa 1997:
LÊN LẦU QUÁN TƯỚC
Vương Chi Hoán
Mặt trời đã khuất non cao,
Sông Hoàng cuồn cuộn chảy vào biển khơi.
Muốn xem ngàn dặm xa xôi,
Hãy lên tầng nữa, trông vời nước non.

Ngô Tất Tố dịch, Thơ Đường, tập I, Nxb Văn học, H. 1988:
LÊN LẦU QUÁN TƯỚC
Vương Chi Hoán
Bóng ô đã gác non đoài,
Sông Hoàng nước chảy ra ngoài biển khơi.
Dặm ngàn tầm mắt muốn coi,
Lầu cao ta lại lên khơi một tầng.




THƠ ĐƯỜNG VỚI LỤC BÁT

                Tác giả Vũ Khánh, người quyết tâm dịch thơ Đường ra "lục bát" đã giới thiệu; "Có những bản dịch thơ Đường sang tiếng Việt của các bậc Tiền nhân tài tình đến mức vượt lên trên cái sự “ tín - đạt - nhã” để thành ra như một tác phẩm độc lập, song hành cùng nguyên tác; nhất là các tác phẩm được chuyển sang thể lục bát".
                Thể thơ lục bát chỉ bắt đầu xuất hiện từ đời Trần, rất lâu sau đời Đường của đất nước Trung Quốc; nhưng có lẽ nó rất có duyên với thơ Đường, phải chăng là ở cái điệu bình dân, dễ ngâm nga, dễ nhớ, dễ thuộc ở xứ Việt ta? Quả là rất lạ. Vài ví dụ dưới đây minh chứng cho điều này; trong đó đầu tiên phải kể đến là bài ca dao Việt; được cho là một nghệ sĩ khuyết danh dịch ra một cách tài tình từ bài Mẫn Nông - Kỳ nhị của Lý Thân.
            Lý Thân 李紳 (772-846), tự Công Thuỳ 公垂, người Vô Tích, Nhuận Châu (Trung Quốc), thi nhân đời Trung Đường. Bài Mẫn Nông - Kỳ nhị của ông đã được một nghệ sĩ khuyết danh dịch ra một cách tài tình, để lại dấu vết trong kho tàng ca dao Việt Nam.
Chữ Hán:
古風(憫農)其二 
鋤禾日當午,
汗滴禾下土。
誰知盤中飧,
粒粒皆辛苦。
Phiên âm Hán Việt:
Cổ Phong (Mẫn Nông) - Kỳ nhị
Sừ hoà nhật đương ngọ
Hãn trích hoà hạ thổ
Thuỳ tri bàn trung xan
Lạp lạp giai tân khổ
.
Dịch nghĩa:
Làm ruộng giữa lúc đang buổi trưa, mồ hôi nhỏ xuống gốc lúa. Có ai hiểu thấu trong bữa ăn,  từng hạt cơm ăn đều thấm đẫm sự vất vả của nhà nông.
Bản dịch cũng là
Bản Ca dao Việt:
Cày đồng đang buổi ban trưa,
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
Ai ơi bưng bát cơm đầy,
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần..


夜思                    李白
床前明光                 
疑是地上霜
擧頭望明月
低頭思故鄉
TĨNH DẠ TƯ
Lý Bạch
Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
                                               Bài dịch của Trần Trọng San:
Ý nghĩ trong đêm vắng
Trước giường ngắm ánh trăng sa,
Trắng phơi mặt đất, ngỡ là ánh sương
Ngẩng đầu trông ngắm vầng trăng;
Cúi đầu, lại nhớ xóm làng ngày xưa.

Bài dịch của Lương Nam Xương (Ái Nhĩ Lan):
Đêm lặng nhớ nhung
Đêm khuya trăng rọi bên giường,
Ngỡ là mặt đất phủ sương trắng ngần.
Ngẩng đầu ngắm bóng trăng ngân,
Cúi đầu man mác muôn phần nhớ quê.

Nguyễn Văn Chử dịch
Đêm lặng nhớ quê
Đầu giường trăng rọi sáng ngời,
Ngỡ như khắp chốn bời bời sương sa.
Ngẩng đầu ngắm chị Hằng Nga,
Cúi đầu sực nhớ quê cha vô ngần.