Chữ Hán:
送别
王維
山中相送罷,
日暮掩柴扉。
春草明年綠,
王孫歸不歸。
|
Âm Hán Việt:
TỐNG BIỆT
Vương Duy
Sơn trung tương tống bãi,
Nhật mộ yểm sài phi.
Xuân thảo minh niên lục,
Vương tôn qui bất qui.
|
Dịch nghĩa:
ĐƯA TIỄN NGƯỜI ĐI
Trong núi, sau khi đưa tiễn người đi, trời đã xế chiều, về đóng cánh cổng nghèo nàn lại. Sang năm cỏ xuân sẽ lại biếc xanh, không biết khách vương tôn có về không?
|
Vương Duy ( năm 701 ~ 761) là nhân vật đại biểu của phái thơ sơn thủy điền viên đời Đường. Chiếm vị trí quan trọng trong lịch sử thơ ca Trung Quốc.
Thơ ngũ luật và ngũ tuyệt, thất tuyệt của Vương duy trình độ rất cao, rất đặc sắc trong thi đàn thơ Đường. Thơ thất luật của ông cũng hùng hồn tráng lệ, hoặc gọt giũa thanh nhã. Có ảnh hưởng rất lớn cho người đời sau.
Chính là do ông thường quen nhìn vạn vật bằng con mắt của bậc thiền nhân. Nên thơ ông mới có cái tĩnh mỹ, trong sáng, êm ả mà các thi nhân khác khó có được. Đặc biệt là ông miêu tả thiên nhiên, như:
人閑桂花落, 夜靜春山空。月出驚飛鳥,時鳴春澗中。《鳥鳴澗》
“Nhân nhàn quế hoa lạc, dạ tĩnh xuân sơn không. Nguyệt xuất kinh phi điểu, thời minh xuân giản trung.” ((Điểu minh giản)) ( Dịch nghĩa: người thanh nhàn, hoa quế rụng, đêm yên lặng, núi xuân vắng vẻ. Trăng mọc làm lũ chim rừng kinh sợ, kêu mãi trong dòng suối xuân."Chim hót trong khe")
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐƯA TIỄN NGƯỜI ĐI
Non sâu vừa tiễn người đi,
Cổng tre khép lại, chiều tà buồn tênh.
Sang xuân cỏ biếc đầu năm,
Vương tôn liệu có về thăm chốn này.
11/01/14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét