Thứ Năm, 21 tháng 11, 2024

DỊCH BÀI THƠ TRIẾT LÝ NGẮN CỦA NHÀ THƠ ĐƯƠNG ĐẠI TRUNG QUÔC - LỖ LÊ tựa đề 泥土 - ĐẤT

«ĐẤT» là một bài thơ triết lý ngắn của nhà thơ đương đại TQ, LỖ LÊ sáng tác năm 1942. Bài thơ ca ngợi tinh thần cống hiến vô tư của đất, đề cao tính tập thể dám hy sinh lợi ích cá nhân, một thái độ nhân văn tràn đầy trách nhiệm. (ngôn ngữ bài thơ mộc mạc, gần gũi, không giáo điều, không hào nhoáng; gợi cho người ta sự suy nghĩ sâu sắc của tính triết lý.)

Nguyên tác:

泥土

鲁藜(中国,1914—1999

老是把自己当作珍珠

就时时有怕被埋没的痛苦

把自己当作泥土吧

让众人把你踩成一条道路


Dịch thơ:
ĐẤT
Lỗ Lê (TQ, 1914-1999)
Mãi cho mình là ngọc trai,
Thì luôn sợ bị chôn vùi bạn ơi.
Hãy làm một cục đất thôi,
Tạo thành đường sá cho người lại qua!
Nguyễn Văn Chử dịch 2024

Thứ Ba, 27 tháng 8, 2024

Dịch Thơ chữ Hán của Nguyễn Khuyến, bài Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

 Nguyên tác chữ Hán:

甲申中秋寓河內有感

寄同年舉人吳(金鼓人)

阮勸 (15/2/1835 - 5/2/1909)

十年此地此中秋,
城郭依依景已殊。
白燭紅燈迷遠近,
素冠青蓋雜誰吾。
蘇江有恨濤聲急,
濃嶺無情夜月孤。
夜禁近聞嚴肅甚,
詩翁曾憶舊遊否?

Dịch thơ:

Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

Nguyễn Khuyến (1835 - 1909)

Chục tết Trung thu ở chốn này,
Tường thành vẫn vậy, cảnh đều thay.
Đèn hồng nến bạch giăng trên dưới,
Mũ trắng lọng xanh lẫn đó đây.
Sóng lớn Tô giang dường giận dữ,
Trăng côi Nùng lĩnh vẻ hao gầy. 
Nghe rằng lệnh cấm đi đêm ngặt,
Bác nhớ cuộc chơi thuở đắm say?

Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm Hán – Việt:

Giáp Thân trung thu ngụ Hà Nội hữu cảm ký đồng niên cử nhân Ngô (Kim Cổ nhân)

Thập niên thử địa, thử trung thu,
Thành quách y y cảnh dĩ thù.
Bạch chúc hồng đăng mê viễn cận,
Tố quan thanh cái tạp thuỳ ngô.
Tô giang hữu hận đào thanh cấp,
Nùng lĩnh vô tình dạ nguyệt cô.
Dạ cấm cận văn nghiêm túc thậm,
Thi ông tằng ức cựu du phầu?

Dịch nghĩa:

Cảm nghĩ nhân dịp tiết trung thu năm Giáp Thân (1884) ở Hà Nội, viết gửi bạn cùng tuổi là cử nhân họ Ngô (người quê Kim Cổ).

Mười năm về trước ta ở nơi đây, cũng tết trung thu này,
Thành quách còn y nguyên, nhưng cảnh đã khác.
Nến trắng, đèn đỏ, lấp loáng như gần như xa,
Mũ trắng, lọng xanh, lẫn lộn ta với người.
Sông Tô như giận, tiếng sóng vỗ dồn dập,
Núi Nùng không có tình, mảnh trăng đêm lẻ loi.
Lệnh cấm đi đêm, gần đây nghe nói gắt gao lắm,
Nhà thơ già có còn nhớ cuộc chơi trước kia không?

Tác giả: Nguyễn Khuyến (1835 - 1909), quê Hà Nam, sinh tại quê ngoại Nam Định, nổi tiếng thông minh, hiếu học. Năm 1864, ông đỗ đầu cử nhân (tức giải nguyên); đến năm 1871 đỗ hội nguyên và đình nguyên (hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam nguyên Yên Đổ. Năm 1873, ông làm làm Đốc học, rồi thăng Án sát tại tỉnh Thanh Hoá. Năm 1877, ông được thăng Bố chính tỉnh Quảng Ngãi, năm sau lại bị giáng chức và điều về Huế, giữ chức quan nhỏ toản tu Quốc sử quán. Nguyễn Khuyến cáo quan về Yên Đổ vào mùa thu năm 1884 và qua đời tại đây. Ông làm quan nổi tiếng thanh liêm, chính trực; là người có tâm hồn rộng mở, giàu cảm xúc trước cuộc sống và gắn bó với thiên nhiên.

 





 

 


Thứ Tư, 7 tháng 8, 2024

Dịch thơ chữ Hán bài TỪ LẦU CHÙA TRẤN QUỐC NGẮM HỒ TÂY của Ngô Thì Sĩ, Việt Nam

Nguyên tác chữ Hán:
西  
吳時仕







 
Dịch thơ:
Từ lầu chùa Trấn Quốc ngắm Hồ Tây
Ngô Thì Sĩ
Trước lầu Lãng Bạc thật bao la,
Nước biếc non xanh trải mượt mà.
Hồ rộng chiều buông cò lẻ bóng,
Đường dài khóm rực sắc muôn hoa.
Chuyện xưa hang cáo cây che phủ,   
Tích cũ thuyền vua khói xóa nhòa.
Thấp thoáng muôn thôn trời chạng vạng,
Thuyền chài mấy chiếc dập dềnh xa.
07/8/2024
Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm Hán – Việt:
Trấn Quốc lâu vọng Tây Hồ
Ngô Thì Sĩ
Lãng bạc tiền lâu hoành vãn diểu
Sơn quang thủy sắc lộng tình nghiêu
Lạc hà cô vụ hồ thiên khoảnh
Xích luyện tùng hoa lộ sổ điều
Hồ quật ngoa truyền dư thảo thúy
Long chu tà sự trục yên tiêu
Thiên thôn yểm ánh tà dương ngoại
Kỷ cá ngư tằng phiếm phiếm diêu.

Dịch nghĩa:
Từ lầu chùa Trấn Quốc ngắm Hồ Tây
Trước lầu hồ Lãng Bạc (Hồ Tây) xa ngắm cảnh chiều
Non xanh nước biếc dưới bầu trời tạnh ráo.
Hồ rộng ngàn mẫu, ráng chiều xuống, cánh cò lẻ loi
Những khóm hoa phô sắc bên mấy con đường
Chuyện hoang đường về hang cáo nay chỉ còn lại màu xanh cây cỏ
Việc huyễn hoặc về thuyền vua đã tiêu tan theo làn sương khói
Nghìn thôn xóm ẩn hiện trong ánh chiều tà
Mấy chiếc thuyền câu bập bềnh nơi xa xa.

Chú thích:
- Hồ quật (hang cáo): Tích Hồ Tây có gò đất, trên có hang cáo 9 đuôi thành tinh , thường hiện thành người để hại dân lành.
- Long chu (thuyền rồng của vua): Theo tích quan Trạng nguyên Lê Văn Thịnh biến thành hổ để dọa vua Lý Nhân Tông, bị phép tôi mưu phản, đày đi xa. Tác giả bài thơ tỏ ý không tin chuyện này.
Tác giả: Ngô Thì Sĩ 吳時仕 (1726 - 1780), là nhà sử học, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng dưới thời chúa Trịnh Doanh và Trịnh Sâm. Ông được Phan Huy Chú đánh giá là người "học vấn sâu rộng, văn chương hùng vĩ, làm rạng rỡ cho tông phái nho gia”. Ông thi đỗ Hoàng giáp năm 1766, từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong triều Lê – Trịnh như Đông các hiệu thư, Tham chính Nghệ An, Hiệu lý Viện Hàn lâm kiêm Hiệu chính quốc sử..., để lại nhiều tác phẩm văn học, sử học.
Ngô Thì Sĩ là cha của các danh sĩ Ngô Thì Nhậm, Ngô Thì Chí, Ngô Thì Trí, Ngô Thì Hương và là cha vợ của Phan Huy Ích. 

Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2024

Dịch thơ chữ Hán bài MIẾU VĂN THÁNH của Bùi Cơ Túc, Việt Nam

 Nguyên tác:

文聖廟

裴基肅 (?-?越南)

古樹森森勢垂天

臨雍輦路百年前

龍編不改風聲舊

富美宮牆獨儼然

Dịch thơ:

MIẾU VĂN THÁNH

Bùi Cơ Túc (?-?Việt Nam)

Cổ thụ sum suê rợp khoảng trời,

Nơi đây Nho học đã bao đời.

Long Biên nếp cũ còn nguyên vẹn,

Trang trọng tường vây đẹp tuyệt vời.

Nguyễn Văn Chử dịch

Phiên âm:

VĂN THÁNH MIẾU

Bùi Cơ Túc (?-?Việt Nam)

Cổ thụ sâm sâm thế thùy thiên

Lâm Ung liễn lộ bách niên tiền

Long Biên bất cải phong thanh cựu

Phú mỹ cung tường độc nghiễm nhiên.

Dịch nghĩa:

MIẾU VĂN THÁNH

Cây cổ thụ um tùm, thế che lấp trời

Trăm năm trước đã là con đường dẫn đến Nho học

Long Biên không thay đổi nền nếp cổ xưa

Cung tường đẹp đẽ, thật trang nghiêm.

Nguyên chú:

Miếu ở ngoài cửa Tây Nam thành, xây dựng từ thời Lý; có biển đề "Cửa Thái học". Trải các triều đại là trụ sở của Nho giáo. Niên hiệu Gia Long 5 (1806), được trùng tu; trước cửa điện Đại Thành xây Khuê Văn Các, có biển đề "Văn Thánh miếu".

Chú thích:

-Lâm Ung 臨雍: Đến với Bích Ung辟雍. Bích Ung là trường đại học do vua thời Tây Chu xây dựng, chỉ trường đại học cao nhất của triều đình. (NHT)

-Tác giả: Bùi Cơ Túc 裴基肅 (?-?), hiệu là Liên Khê, 蓮溪, quê ở Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Làm quan dưới triều Nguyễn. Tác phẩm: Long Biên bách nhị vịnh 龍編百二詠 (102 bài thơ vịnh Long Biên).

 


Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024

Dịch Thơ chữ Hán CẢM TÁC CUỐI XUÂN 暮春感作 Nguyễn Danh Nho(1638 – 1699, Việt Nam)

Qua xuân trời đất ấm lên rồi,

Khí hậu xem ra hợp ý người.

Mưa tạnh đôi bờ non rực rỡ,

Gió ngưng một dải nước xanh ngời.

Trưa vui tựa cửa nghe chim hát

Chiều lặng ra vườn nhặt hoa rơi

Xưa nay cuộc sống là nơi tạm,

Chẳng quản thời gian lặng lẽ trôi.

Nguyễn Văn Chử dịch

Nguyên tác

暮春感作

阮名儒 (1638 1699 越南)

三春向暮正暄和,

晚節宜人稱意多。

兩岸雨晴山有色,

一江風靜水無波。

午窗隱几聽啼鳥,

幽徑擕笻掇落花。

古往今來生若寄,

休論光景逐蹉陀。

Âm Hán Việt

Mộ xuân cảm tác

Nguyễn Danh Nho(1638 – 1699, Việt Nam)

Tam xuân hướng mộ chính huyên hoà,

Vãn tiết nghi nhân xứng ý đa.

Lưỡng ngạn vũ tình sơn hữu sắc,

Nhất giang phong tĩnh thuỷ vô ba.

Ngọ song ẩn kỷ thính đề điểu,

U kính huề cung xuyết lạc hoa.

Cổ vãng kim lai sinh nhược ký,

Hưu luận quang cảnh trục sa đà.

Dịch nghĩa:

CẢM TÁC CUỐI XUÂN

Ba tháng mùa xuân, lúc về cuối chính là lúc ấm áp

Tiết muộn hợp với người, có nhiều điều hài lòng

Hai bờ sông mưa tạnh, núi phô màu sắc

Dòng sông lặng gió, nước không có sóng

Buổi trưa tựa ghế bên cửa sổ nghe chim kêu

Chống gậy lên lối đi tĩnh mịch nhặt hoa rụng

Từ xưa đến nay, cuộc đời như sống gửi

Đừng bàn đến cảnh vật, cứ để thời gian trôi đi.

Chú thích:

- Sinh nhược ký (sống gửi): quan niệm nhà Phật cho rằng cuộc đời con người ở trần thế như sống nhờ, sống gửi, vì nó trôi đi nhanh, thấm thoắt chẳng được là bao. Vì vậy mà nói: sống gửi thác về (sinh ký tử quy).

Tác giả: Nguyễn Danh Nho 阮名儒 (1638 - 1699) hiệu Sằn Hiên 莘軒, người xã Nghĩa Phù, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương. Ông thi đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân năm Canh Tuất niên hiệu Cảnh Trị 8 (1670) đời vua Lê Huyền Tông. Ông làm quan chức Bồi tụng Hữu thị lang, tước Nam và được cử đi sứ sang nhà Thanh (Trung Quốc). Sau khi mất ông được tặng Tả thị lang Bộ Công, tước Tử. Có thơ trong Toàn Việt thi lục.

Thích
Bình luận
Chia sẻ