Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
重陽席上賦白菊
白居易
滿園花菊鬱金黄,
中有孤叢色似霜。
還似今朝歌酒席,
白頭翁入少年場
Âm Hán Việt:
TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC
Bạch Cư Dị 
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng, 
Trung hữu cô tùng sắc tự sương. 
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch, 
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường. 
Chú thích:
Toàn bài thơ biểu đạt nhà thơ tuy đã cao niên những vẫn có sự đam mê như đám trẻ tuổi. Ví mình như đóa hoa cúc trắng nổi lên giữa vườn cúc vàng…

Dịch nghĩa:
VỊNH HOA CÚC TRẮNG TRÊN BÀN TIỆC NGÀY TRÙNG DƯƠNG.
Đầy vườn cúc nở hoa vàng như nghệ, giữa nổi lên một khóm màu trắng tựa sương tuyệt đẹp. 
Chẳng khác trong tiệc rượu ca hát sớm nay, một ông già đầu bạc xen lẫn giữa đám tuổi trẻ.

  Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
VỊNH HOA CÚC TRẮNG TRÊN BÀN TIỆC
NGÀY TẾT TRÙNG DƯƠNG.
Khắp vườn nở rộ cúc vàng,
Chen vào một đóa trắng sương tuyệt vời.
Y như tiệc sáng nay thôi,
Tóc ngà xen giữa đám người tóc xanh.
11/2014


Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

KÝ VIỄN - Lý Bạch

Chữ Hán:
寄遠
李白
美人在時花滿堂, 
美人去時餘空床。
 
床中繡被卷不寢,
 
至今三載聞餘香。
 
香亦竟不滅,
 
人亦竟不來。
 
相思黃葉盡,
 
白露濕青苔。
 
Âm Hán Việt:
KÝ VIỄN
Lý Bạch

Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường, 
Mỹ nhân khứ thì dư không sàng. 
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm, 
Chí kim tam tải văn dư hương. 
Hương diệc cánh bất diệt, 
Nhân diệc cánh bất lai. 
Tương tư hoàng diệp tận, 
Bạch lộ thấp thanh đài.  

Dịch nghĩa:
 GỬI ĐI XA

Khi người đẹp còn ở thì hoa nở đầy nhà, khi người đã đẹp đi, chỉ còn lại chiếc giường trống. Trên giường chăn gấm đã cuộn không ai nằm, mà đã ba năm vẫn con dư hương thơm. Hương không mất đi, người cũng không trở lại. Thương nhớ khôn nguôi khi lá vàng rụng hết, sương trắng ướt sũn trên rêu xanh.


  
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
GỬI ĐI XA
Có nàng hoa nở đầy nhà,
Nàng đi thì chiếc giường đà bỏ không.
Giường đây chăn gối ai nằm,
 Mà hương thơm đã ba năm vẫn nồng.
Hương nồng vương vấn trong lòng,
Đi xa xa mãi người không trở về.
Nhớ thương lá rụng não nề,
Rêu xanh trắng phủ đầm đìa móc sương.
11/2014

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

TỬ DẠ THU CA - Lý Bạch

Chữ Hán:
子夜秋歌
李白
長安一片月,
萬戶搗衣聲。
秋風吹不盡,
總是玉關情。
何日平胡虜,
良人罷遠徵。
Âm Hán Việt:
TỬ DẠ THU CA
Lý Bạch

Trường An nhất phiến nguyệt,
Vạn hộ đảo y thanh.
Thu phong xuy bất tận, 
Tổng thị Ngọc Quan tình. 
 nhật bình Hồ lỗ, 
Lương nhân bãi viễn chinh. 
Dịch nghĩa:
 BÀI CA MÙA THU CỦA NÀNG TỬ DẠ

Một mảnh trăng chiếu trên thành Trường An, tiếng chày đập áo vang lên tự muôn nhà. Vì sao gió thu thổi mãi vẫn không át hết tiếng động ấy, là vì tiếng động ấy phát ra từ tay những thiếu phụ vương vấn mối tình miền Ngọc Quan. Bao giờ dẹp xong giặc Hồ, để cho chồng được nghỉ chinh chiến trở về.
Ghi chú:
Tử Dạ: Tên một người con gái đời Tấn, người đã làm một bài ca rất bi ai.
Ngọc Quan: Tức Ngọc Môn Quan, nay ở phía tây Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, TQ
搗衣聲(đảo y thanh): Tiếng đập áo. Trước thời Tống, việc trồng bông ở Trung Quốc chưa phổ biến, trang phục chỉ có thể dùng hàng dệt tơ và gai. Hàng dệt tơ thời ấy chỉ có thể cung cấp cho quý tộc; còn dân thường phần lớn bận đồ sợi gai. Nhược điểm rõ nhất của hàng dệt gai là rất cứng, nên trước khi mặc phải đập cho mềm, phẳng ra, (đây chính là tiếng đập áo nói trong bài này, không phải giặt bằng nước). Đập áo tuy cũng phải dùng chày và đá kê đập, nhưng mục đích của nó chỉ là làm cho áo mềm và phẳng phiu ra, mà đập ở nhà, không phải ra bờ sông, lại thường tiến hành vào ban đêm.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
BÀI CA MÙA THU CỦA NÀNG TỬ DẠ
Trường An một mảnh trăng ngà,
Tiếng kêu đập áo muôn nhà rộn lên.
Gió thu thổi mãi chẳng yên,
Bởi còn vương vấn mối tình Ngọc Quan.
Bao giờ giặc dã dẹp tan,
Chàng thôi chinh chiến bình an trở về.
11/2014



Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

BÁT TRẬN ĐỒ - Đỗ Phủ

Chữ Hán:
八陣圖

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳
Âm Hán Việt:
BÁT TRẬN ĐỒ
Đỗ Phủ

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.
Dịch nghĩa:
TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI

Công lớn trùm thời nước chia ba (thời Tam quốc: Ngụy; Thục; Ngô), tên tuổi vang dội nhờ bày ra trận đồ Bát quái. Nước sông vẫn chảy, nhưng đá không lay chuyển, như còn để lại mối hận đă không thôn tính  nổi nước Ngô.

Kết quả hình ảnh cho 八陣圖杜甫
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI
Công trùm thời nước chia ba,
Danh cao bởi Bát trận đồ bày nên.
Nước trôi đá vẫn còn nguyên,
Hận chưa thôn tính được miền Đông Ngô.

10/2014


Chủ Nhật, 2 tháng 11, 2014

NGUYỆT DẠ - Đỗ Phủ 

Chữ Hán:

今夜鄜州月,
閨中只獨看
遙憐小兒女,
未解憶長安
香霧雲鬟濕,
清輝玉臂寒
何時倚虛幌,
雙照淚痕幹
Âm Hán Việt:
NGUYỆT DẠ
Đỗ Phủ 

Kim dạ Phu châu nguyệt,   
Khuê trung chỉ độc khan.   
Dao liên tiểu nhi nữ, 
Vị giải ức Trường An.   
Hương vụ vân hoàn thấp, 
Thanh huy ngọc tý hàn.   
 thì   hoảng,  
Song chiếu lệ ngân can?
 Dịch nghĩa:
 ĐÊM TRĂNG

Trăng sáng Phu Châu đêm nay, trong phòng khuê, chỉ có một mình ai ngắm. Từ phương xa, ta yêu thương quá con gái nhỏ, sao chẳng nguôi ngoai nỗi nhớ Trường An. Những hạt móc thơm làm ướt tóc mây, ánh trăng lạnh lẽo dãi trên đôi tay ngà ngọc. Biết đến bao giờ lại được cùng nhau tựa bên rèm cửa sổ trong, ngắm bóng trăng chiếu sáng đôi ngấn lệ khô?


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐÊM TRĂNG
Phu Châu trăng sáng đêm nay,
Phòng khuê lẻ bóng, lòng đầy hắt hiu.
Xa thương con gái mến yêu,
Trường An nỗi nhớ muôn chiều vấn vương.
Tóc mây thơm hạt móc sương,
Cánh tay ngà ngọc trăng suông dãi dầu.
Bao giờ tựa cửa bên nhau,
Trăng soi đôi bóng lệ sầu cạn khô?
10/2014

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2014

TRÌ THƯỢNG - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
池上
白居易
小娃撐小艇,
偷採白蓮回。
不解藏踪跡,
浮萍一道開。
Âm Hán Việt:
TRÌ THƯỢNG
Bạch Cư Dị

Tiểu oa sanh tiểu đĩnh,  
Thâu thái bạch liên hồi.  
Bất giải tàng tung tích,
Phù bình nhất đạo khai. 
Dịch nghĩa:
TRÊN AO

Cô con gái nhỏ xinh bơi chiếc thuyền con, trộm hái gương sen trắng đem về. Cô không biết che dấu vết, nên để rẽ ra một lối giữa đám bèo nổi trên ao.
Chú thích:
: dùng sào chống đẩy (thuyền)
trong bài thơ là chỉ gương sen chứ không phải chỉ hoa sen

Kết quả hình ảnh cho gương sen

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRÊN AO
Cô em chống đẩy thuyền xinh,
Trộm gương sen trắng rung rinh chở về.
Dại khờ dấu chẳng biết che,
Thuyền đi vạch một lối chia ao bèo.


10/2014