Chủ Nhật, 4 tháng 1, 2015

MỘ GIANG NGÂM - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:

暮江吟

白居易  

 
 
 



Ghi chú:
暮江吟:Thơ làm bên sông lúc hoàng hôn.
残阳:Ánh nắng mặt trời khi sắp lặn,cũng chỉ hoàng hôn
瑟瑟:Nghĩa ở đây là chỉ màu xanh biếc

MỘ GIANG NGÂM - Bạch Cư Dị
Nhất đạo tàn dương phô thủy trung, 
Bán giang sắt sắt bán giang hồng. 
Khả liên cửu nguyệt sơ tam dạ, 
Lộ tự trân châu nguyệt tự cung.

Dịch nghĩa 

KHÚC NGÂM TRÊN SÔNG LÚC HOÀNG HÔN
Một dải nắng chiều bao phủ mặt nước, nửa sông xanh biêng biếc, nửa sông màu đỏ. Đáng yêu thay đêm mùng ba đầu tháng chín, những giọt sương tựa như hạt ngọc, ánh trăng tựa như cánh cung.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
KHÚC NGÂM TRÊN SÔNG LÚC HOÀNG HÔN
Trên sông nắng quái chiều tà,
Bên hồng, bên biếc chan hòa long lanh.
Đêm ba tháng chín an lành,
Sương như hạt ngọc, trăng hình cánh cung.
2015




TỐNG PHƯƠNG NGOẠI THƯỢNG NHÂN - Lưu Trường Khanh

Chữ Hán:

送方外上人
劉長卿
孤雲將野鶴,
豈向人間住
莫買沃洲山,
時人已知處

TỐNG PHƯƠNG NGOẠI THƯỢNG NHÂN
Lưu Trường Khanh 
Cô vân tương dã hạc 
Khởi hướng nhân gian trú 
Mạc mãi Ốc châu san 
Thời nhân dĩ tri xứ 


Chú thích: 1/ Phương ngoại: đã thoát ra ngoài thế tục.
      2/ Thượng nhân: cách gọi tôn kính đối với  nhà sư.
      孤云、野鹤:(Cô vân, dã hạc) Đều dùng để ví với Phương ngoại thượng nhân.
      3/ Ốc châu sơn, tên núi, phía đông huyện Tân Xương, tỉnh Chiết Giang, TQ. Tương truyền cao tăng Chi Độn đời Tấn đã từng thả hạc, nuôi ngựa tại đây; (nên có Núi thả hạc, Đèo nuôi ngựa).
Dịch nghĩa:
ĐƯA TIỄN NHÀ SƯ
(Đã thoát tục) như cánh hạc bay cùng đám mây cô quạnh, (Thày) há lại tới cõi người để cư trú sao. Đừng tính mua đất ở núi Ốc châu (để quy ẩn) nữa, vì nay người ta đều đã biết đất lành (và kéo tới ở đông đúc lắm rồi, thầy nên tìm nơi thanh tịnh thì hơn). 
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐƯA TIỄN NHÀ SƯ
Như mây côi với hạc đồng,
Há còn tìm đến ở trong cõi người.
Ốc Châu sơn, biết cả rồi,
Chớ mua, xin hãy tìm nơi thanh nhàn.
2015


Thứ Bảy, 3 tháng 1, 2015

XUÂN CUNG KHÚC - Vương Xương Linh

Chữ Hán:

春宮曲

王昌齡
 
殿 
 


Âm Hán Việt:

XUÂN CUNG KHÚC
Vương Xương Linh
Tạc dạ phong khai lộ tỉnh đào, 
Vị Ương tiền điện nguyệt luân cao. 
Bình Dương ca vũ tân thừa sủng, 
Liêm ngoại xuân hàn tứ cẩm bào.

Dịch nghĩa:

XUÂN CUNG KHÚC
Đêm qua gió thổi làm nở hoa đào bên giếng lộ thiên (không mái che), Điện trước cung Vị Ương trăng sáng trên cao. 
cô gái múa hát trong nhà công chúa Bình Dương vừa được vua sủng ái, người ban áo gấm cho nàng trong lúc xuân lạnh ngoài rèm.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
XUÂN CUNG KHÚC
Gió đêm, bên giếng nở đào,
Vị Ương điện trước trăng cao sáng ngời.
Yêu người vũ nữ hát cười,
Vua ban áo gấm, ngoài trời lạnh xuân.
2015

Thứ Sáu, 2 tháng 1, 2015

LỘC TRẠI - Vương Duy

Chữ Hán:
鹿寨

王維 

空山不見人,
但聞人語響。 
返景入深林,
復照青苔上。 

LỘC TRẠI
Vương Duy
Không sơn bất kiến nhân, 
Ðản văn nhân ngữ hưởng. 
Phản cảnh nhập thâm lâm, 
Phục chiếu thanh ðài thượng. 


Dịch Nghĩa: 
TRẠI HƯƠU
Trong núi vắng, không thấy người, chỉ nghe thấy tiếng người nói vang lại. Ánh phản chiếu dọi vào trong rừng sâu, rồi lại soi lên trên đám rêu xanh.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRẠI HƯƠU
Núi không, trống vắng bóng người,
Chỉ nghe tiếng nói tiếng cười vẳng lên.
Rừng sâu ánh nắng chiều xuyên,
Lại soi phủ khắp cả nền rêu xanh.
2015

Thứ Năm, 1 tháng 1, 2015

GIANG NAM XUÂN - Đỗ Mục

Chữ Hán:

江南春

杜牧 

 
 
 


Âm Hán Việt:

GIANG NAM XUÂN

Đỗ Mục
Thiên lý oanh đề lục ánh hồng, 
Thuỷ thôn sơn quách tửu kỳ phong. 
Nam triều tứ bách bát thập tự, 
Đa thiểu lâu đài yên vũ trung.

Dịch nghĩa: 

GIANG NAM XUÂN

Suốt nghìn dặm oanh hót ca, màu xanh hoà lẫn màu hồng, gió đong đưa cờ phướn các quán rượu khắp thôn sông, xóm núi. Bốn trăm tám chục ngôi chùa thời Nam Bắc triều,bao nhiêu lầu đài nữa đều nằm trong mưa gió mịt mùng.
 
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch:
GIANG NAM XUÂN
Biếc hồng mười dặm oanh kêu,
Khắp nơi quán rượu cờ đều đung đưa.
Bốn trăm tám chục đền chùa,
Bao lâu đài nữa gió mưa dập vùi.
2015