Thứ Hai, 25 tháng 11, 2013

24 TIẾT KHÍ TRONG NĂM

Người xưa chia ngày một năm ra làm 24 tiết khí, dựa theo quy luật thay đổi mùa và biến đổi khí hậu.
Lập xuân: tức bắt đầu mùa xuân.
Vũ thủy: bắt đầu mưa.
Kinh trập: chỉ sấm xuân đánh thức động vật nằm ngủ đông trong đất.
Xuân phân: biểu thị ngày đêm bằng nhau.
Thanh minh: tiết trời trong sáng.
Cốc vũ: mưa cho ngũ cốc sinh sôi nảy nở.
Lập hạ: bắt đầu mùa hè.
Tiểu mãn: các loại hạt cây trồng họ mạch bắt đầu đầy đặn.
Mang chủng: các loại cây trồng hạt có râu họ mạch đã chín.
Hạ chí: mùa hạ đến.
Tiểu thử: khí hậu bắt đầu oi bức.
Đại thử: lúc nóng nhất trong 1 năm.
Lập thu: bắt đầu mùa thu.
Xử thử: kết thúc ngày nóng bức.
Bạch lộ: thời tiết chuyển mát, sương dày đặc mà trắng.
Thu phân: ngày đêm bằng nhau.
Hàn lộ: sương bắt đầu lạnh, sắp kết thành băng.
Sương giáng: bắt đầu có sương.
Lập đông: bắt đầu mùa đông.
Tiểu tuyết; bắt đầu mưa tuyết.
Đại tuyết: tuyết xuống nhiều.
Đông chí: mùa đông đến.
Tiểu hàn: khí hậu bắt đầu rét.
Đại hàn: lúc rét nhất trong năm.
Để tiện ghi nhớ, người ta đặt ra bài vè 24 tiết khí:
Xuân vũ kinh xuân thanh cốc thiên,
Hạ mãn mang hạ thử tương liên.
Thu xử lộ thu hàn sương giáng,
Đông tuyết tuyết đông tiểu đại hàn.
24 khí tiết xuất hiện sớm nhất ở triều Thương, là sáng tạo độc đáo của lịch pháp Trung Quốc, có tác dụng quan trọng trong phát triển nông nghiệp Trung Quốc mấy ngàn năm qua.


 ST


Chủ Nhật, 17 tháng 11, 2013

THUYẾT VÔ THẦN

Trước khi nhà triết học thuyết vô thần cổ Hy Lạp - Epicurus chứng minh sự không tồn tại của thần thánh, tư tưởng nhân loại thời kỳ đầu cả thế giới hầu như đều bị thuyết hữu thần chi phối.
Epicurus cho rằng: Thần hoặc là ý muốn nhưng không có năng lực trừ bỏ cái ác cái xấu trên thế gian; hoặc là có năng lực nhưng không muốn loại trừ cái ác cái xấu trên thế gian; hoặc là vừa có năng lực vừa có ý muốn loại trừ cái ác cái xấu trên thế gian. Nếu thần có ý muốn mà không có năng lực trừ bỏ cái ác cái xấu trên thế gian, thì không thể gọi là vạn năng được, mà loại không có năng lực này thì lại mâu thuẫn với bản tính của thần. Nếu thần có năng lực mà không có ý muốn trừ bỏ cái ác cái xấu trên thế gian, thế thì chứng minh rằng thần có ác ý, mà cái ác ý này cũng mâu thuẫn với bản tính của thần vậy. Nếu thần vừa có năng lực vừa có ý muốn loại trừ cái ác cái xấu trên thế gian (đây là loại giả định duy nhất có thể phù hợp với bản tính của thần), thế thì tại sao trong trường hợp này cái xấu cái ác vẫn còn trên thế gian? Vì thế, thần căn bản không tồn tại.

S.T

Thứ Ba, 12 tháng 11, 2013

BỐN MĨ NHÂN VÀ BỐN TIÊN NỮ CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC.

1/ Bốn mỹ nhân:
Chiêu Quân xuất tái (Chiêu Quân qua ải): Thời Tây Hán Nguyên đế, cung nữ Vương Chiêu Quân tự nguyện “hòa hảo” với Hung nô, nàng ôm tỳ bà xuất tái (ra ngoài cửa ải), chim nhạn đang bay nhìn thấy nàng, kinh hoàng về sắc đẹp mà rớt xuống từ cuối đám mây, nên mới gọi là “lạc nhạn” (nhạn sa, chim sa).
Quý Phi túy tửu (Quý Phi say rượu): Thời Đường Huyền tông, Quý Phi Dương Ngọc Hoàn mượn rượu giải sầu, hoa Mẫu đơn thấy nàng mà tự thẹn và xấu hổ, nên mới gọi là “Tu hoa” (hoa thẹn).
Tây Thi cán sa (Tây Thi giặt lụa): Cuối thời Xuân Thu, nàng Tây Thi nước Việt khi giặt lụa, cá đang bơi dưới nước nhìn thấy dung mạo đẹp đẽ của nàng mà tự lặn hẳn xuống đáy sông, nên mới gọi là “Trầm ngư” (cá lặn).
Điêu Thuyền bái nguyệt (Điêu Thuyền vái trăng): Cuối thời Đông Hán, tỳ nữ Điêu Thuyền có tấm lòng lo cho thiên hạ, đốt hương vái trăng, trăng sáng vằng vặc nhìn thấy Điêu Thuyền liền chẳng còn thướt tha yểu điệu, lẩn vào đám mây, nên mới gọi là “Bế nguyệt” (trăng ẩn).
(Bốn mỹ nhân được coi là đẹp đến mức chim sa, cá lặn, hoa nhường, nguyệt thẹn vì sắc đẹp của họ)

2/ Bốn tiên nữ:
Hằng Nga bôn nguyệt (Hằng Nga bay vào cung trăng): Hằng Nga là vợ Hậu Nghệ. Hậu Nghệ xin được thuốc trường sinh bất tử của Vương Mẫu, Hằng Nga lấy trộm ăn, bỗng nhiên nhẹ bẫng rồi bay thẳng vào cung trăng mà thành tiên.
Thiên Nữ tán hoa (Thiên nữ rải hoa): Trong phòng Duy Ma Cật có một Thiên Nữ, rải thiên hoa bảy màu cho các chúng phật, phần lớn các hoa đều rơi xuống đất, riêng đệ tử Ngọc Đại mình bám đầy hoa, Thiên Nữ nói trần duyên của ông ta chưa đứt.
Nữ Oa bổ thiên (Nữ Oa vá trời): Thời thượng cổ, trời bị thủng vài chỗ, mưa mãi không ngừng, nước lũ triền miên, Nữ Oa luyện đá ngũ sắc để vá trời chế ngự mưa lớn, trị nước lũ, muôn dân mang ơn.
Ma Cô hiến thọ (Ma Cô dâng thọ): Tiên nữ Ma Cô, có thể ném gạo thành ngọc, đã từng tận mắt nhìn thấy 3 lần biển đông biến thành ruộng dâu. Nàng nấu rượu bằng linh chi, chúc thọ cho Vương Mẫu.

S.T

TRƯƠNG VĨNH KHÁNH: Tứ đại mỹ nhân "của Trung Quốc cổ đại"

Thứ Năm, 7 tháng 11, 2013

KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI ĐI XA - Mạnh Giao

Chữ Hán
遊子吟
孟郊
慈母手中線,
遊子身上衣;
臨行密密縫,
意恐遲遲歸。
誰言寸草心,
報得三春暉。

Âm Hán Việt:
DU TỬ NGÂM
Mạnh Giao
Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y;
Lâm hành mật mật phùng,
Ý khủng trì trì quy.
Thùy ngôn thốn thảo tâm, báo đắc tam xuân huy.
Dịch nghĩa:
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI ĐI XA
Kim chỉ trong tay mẹ hiền, khâu lên tấm áo cho con sắp đi xa; Trước lúc lên đường mẹ may từng đường kim mũi chỉ thật kỹ càng, ý lo rằng con chậm trở về (áo sẽ rách). Ai bảo rằng tấm lòng của tấc cỏ có thể báo đáp được ánh nắng của ba tháng xuân.
Tác giả: Mạnh Giao
Mạnh Giao Tự là Đông Dã (751- 814), Người đất Vũ Khang, Hồ Châu đời Đường (nay là Đức Thanh, Chiết Giang, TQ). Quê gốc Bình Xương ( nay là đông bắc Lâm Ấp, Sơn Đông, TQ), tổ tiên ở Lạc Dương (nay thuộc Hà Nam). Thuở nhỏ sống cơ hàn, từng chu du các nơi Hồ Bắc, Hồ Nam, Quảng Tây, không gặp gì hợp, nhiều lần thi không đậu, 46 tuổi mới đậu tiến sĩ. 50 tuổi được bổ làm chức úy huyện Lật Dương, thường lơ là công việc, lấy làm thơ để vui, bị phạt nửa lương. Thời kỳ đầu Nguyên Hòa (niên hiệu Đường Hiến-tông, 806~820) làm vận tải thủy lục Hà Nam, định cư tại Lạc Dương. 60 tuổi vì mẹ chết nên bỏ quan. Sau làm tham mưu cho Trịnh Dư Khánh, trấn thủ Hưng Nguyên. Khi mất được Trương Tịch đặt tên thụy là Trịnh Diệu tiên sinh và Hàn Dụ làm bài minh đề trên mộ chí. Thơ ca của ông còn tồn giữ hơn 500 bài, nhiều nhất là Ngũ ngôn cổ thi ngắn, không có bài Luật thi nào. Thơ tiêu biểu có bài “Du tử ngâm”.


            “Du tử ngâm” là tác phẩm thơ của Mạnh Giao được mọi người ưa thích. Toàn bài có 30 chữ, sử dụng thủ pháp  mộc mạc, thông qua hồi ức về hình ảnh may áo cho người con trước khi lên đường xem như rất bình thường, nhưng đã làm nổi bật lên, đồng thời ca tụng tấm lòng bao la của người mẹ hiền, thể hiện sự cảm kích cũng như tình yêu sâu sắc và sự tôn kính của nhà thơ đối với mẹ hiền kính yêu. Bài thơ thể hiện tình cảm, chân thành, tự nhiên, đã truyền tụng rộng rãi hàng ngàn năm nay.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
KHÚC NGÂM CỦA NGƯỜI ĐI XA
Mẹ hiền kim chỉ cầm tay,
May manh áo mới cho ngày con đi;
Đường kim mũi chỉ chỉnh tề,
Những lo con bận chẳng về được ngay.
Ai mong tấc cỏ lòng này,
Đáp đền cho đặng ơn tày nắng xuân.
                                   HCM, 8/11/2013

Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2013

MỪNG GẶP EM HỌ, LẠI NÓI LỜI TỪ BIỆT - Lý Ích

Chữ Hán:

喜见外弟又言别

李益
十年離亂後,
長大一相逢。
問姓驚初見,
稱名憶舊容。
別來滄海事,
語罷暮天鐘。
明日巴陵道,
秋山又幾重。
Âm Hán Việt:
HỶ KIẾN NGOẠI ĐỆ
HỰU NGÔN BIỆT
Lý Ích
Thập niên ly loạn hậu,
Trưởng đại nhất tương phùng.
Vấn tính kinh sơ kiến,
Xưng danh ức cựu dung.
Biệt lai thương hải sự,
Ngữ bãi mộ thiên chung.
Minh nhật Ba Lăng đạo,
Thu sơn hựu kỷ trùng.
Dịch nghĩa:
MỪNG GẶP EM HỌ, LẠI NÓI LỜI TỪ BIỆT
Mười năm loạn lạc, chia ly, lớn lên gặp nhau nơi quê người.
Hỏi họ ngỡ mới gặp lần đầu, xưng tên liền nhớ ra khuôn mặt xưa mà mừng rỡ.
Xa nhau đã qua bao chuyện dâu bể, chuyện trò xong thì chuông chiều đã đổ dài.
Ngày mai trên con đường tới Ba Lăng, muôn trùng núi thu cách trở, lại in tiếp bước chân người đi.

Ghi chú:
巴陵:Ba Lăng tức Nhạc Châu, nay là TP Nhạc Dương tỉnh Hồ Nam TQ (nơi người em họ trong thơ s đi)
                                                                                                                      


Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch:
MỪNG GẶP EM HỌ, LẠI NÓI LỜI TỪ BIỆT
Mười năm loạn lạc, chia phôi,
Trưởng thành, nay chốn quê người gặp nhau.
Hỏi thì thấy họ lạ sao,
Xưng tên sực nhớ hao hao mặt người.
Xa nhau đằng đẵng biển trời,
Chuyện xong, chiều đã đổ hồi chuông ngân.
Ngày mai lối ấy Ba Lăng,
Núi thu lớp lớp, bước chân lại dài.
                               HCM, 2/11/2013

Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2013

BAN ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG, NGHE SÁO THỔI - Lý Ích

Chữ Hán:
夜上受降城聞
李益
回樂峰前沙似雪,
受降城外月如霜。
不知何處吹蘆管,
一夜征人盡望鄉。
Âm Hán Việt:
DẠ THƯỚNG THỤ HÀNG THÀNH VĂN ĐỊCH
Lý Ích
Hồi Nhạc phong tiền sa tự tuyết,
Thụ Hàng thành ngoại nguyệt như sương.
Bất tri hà xứ xuy lô quản,
Nhất dạ chinh nhân tận vọng hương.

Tác giả: Lý Ích
Lý Ích tự là Quân Ngu (749 – 827); người đất Cô Tang, Huyện Lũng Tây (nay là Vũ Uy, tỉnh Cam Túc, TQ). Năm 769 (đời Đường Đại Tông) thi đậu Tiến sĩ. Được bổ làm chức úy tại huyện Trịnh; bất mãn, từ chức, đi du lịch vùng Yên, Triệu. Sau đến tòng sự với Lưu Tế, tiết độ sứ U Châu (năm 797), rồi giúp việc trong mạc phủ của Bân Ninh. Trong đời Đường Hiến Tông, về triều làm các chức Bí thư thiếu giám, Tập hiền Học sĩ… Bị giáng chức vì làm thơ tỏ ý oán vọng. Sau được phục chức rồi thăng làm Thị ngự sử. Cuối cùng làm đến Lễ bộ Thượng thư (năm 827).
Ông là cao thủ thể thất tuyệt trong thơ biên thùy. Thơ ông sáng tác, xúc động bi tráng, phong cách gần giống Vương Xương Linh. Tác phẩm hiện còn lưu giữ 2 quyển “Lý Ích tập”; 2 quyển “Lý Quân Ngu thi tập”.

Ghi chú:
Hồi Nhạc phong: núi Hồi Nhạc, ở tây nam huyện Linh Vũ, tỉnh Cam Túc, TQ.
Thụ Hàng thành:  đời Đường có ba thành Thụ Hàng, do Trương Nhân Nguyện xây dựng, ở đây là chỉ Tây Thành.
Lô quản: là nhạc cụ thổi của người Hồ phương Bắc TQ chế tác từ cây sậy.
Dịch nghĩa:
BAN ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG, NGHE SÁO THỔI
Trước núi Hồi Nhạc cát trắng như tuyết, ngoài thành Thụ Hàng trăng sáng như sương.
Không biết tiếng sáo thổi lên từ nơi nào, khiến cho các chinh phu cả đêm thảy đều trông ngóng về quê hương.

Dịch thơ
Nguyễn văn Chử dịch:
BAN ĐÊM LÊN THÀNH THỤ HÀNG, 
NGHE SÁO THỔI
Núi Hồi cát trắng tựa sương
Thụ Hàng trăng sáng như gương trong ngần.
Bỗng đâu nghe tiếng sáo ngân,
Chinh phu đêm ấy muôn phần nhớ quê.
HCM, 2/11/2013

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2013

SÁO


Sáo là một trong những nhạc cụ cổ xưa nhất của Trung Quốc, thời kỳ viễn cổ 8000 năm trước, Trung Quốc đã xuất hiện loại sáo bằng xương thổi dọc được chế từ xương chi của loài chim. Sáo ngang xuất hiện vào khoảng triều Hán, tương truyền thời Hán Võ đế, Trương Thiên truyền từ Tây Vực vào, lúc đó gọi là “hoành xuy” (thổi ngang), là nhạc cụ thổi quan trọng, dùng tre trúc chế tác thành. Sau Hán Tần, sáo thành tên gọi chung của sáo thổi ngang và tiêu thổi dọc, tình trạng này kéo dài mãi đến đời Đường. Thời Tống, sáo thành nhạc cụ quan trọng phối tấu của từ khúc và ca nhạc dân gian.
Âm thanh của sáo có đặc điểm du dương, uyển chuyển, dễ làm cho người ta có một cảm giác nhớ quê hương da diết. Các nhà thơ đời Đường: Lý Bạch với bài thơ “Đêm xuân tại Lạc Thành, nghe tiếng sáo”; Lý Ích với bài thơ “Ban đêm  lên thành Thụ Hàng, nghe sáo thổi” đã thể hiện đầy đủ sức hấp dẫn nghệ thuật làm rung động lòng người của tiếng sáo. 
S.T