Thứ Năm, 31 tháng 10, 2013

BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU - Trần Tử Ngang



Chữ Hán:

登幽州臺

陳子昂
前不見古人,
後不見來

念天地之悠悠,
獨愴然而涕下。
Âm Hán Việt:
ĐĂNG U CHÂU ĐÀI CA
Trần Tử Ngang
Tiền bất kiến cổ nhân,
Hậu bất kiến lai giả.
Niệm thiên địa chi du du,
Độc thương nhiên nhi thế hạ!
 Dịch nghĩa :
BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU
Trông về trước không thấy người xưa, nhìn lại sau không thấy kẻ đến.
Nghĩ trời đất lâu dài man mác, để một mình rơi lệ bùi ngùi!
Ghi chú: U Châu: nay là Bắc Kinh
Ảnh tác giả


Tác giả: Trần Tử Ngang
Trần Tử Ngang (năm 659 ~ 700 ), một trong những nhân vật cách tân thơ văn thời sơ Đường. Tự là Bá Ngọc. Vì đã từng nhậm chức Hữu thập di nên người đời sau còn gọi là Trần Thập Di. Thơ ông phong cách cao thượng, ngụ ý sâu xa, nét bút cứng cáp mạnh mẽ.
Trần Tử Ngang khi còn trẻ, gia đình khá giả, xem thường tiền bạc thích làm việc tốt, khảng khái nghĩa hiệp. Khi trưởng thành ra sức đọc sách, học rộng hiểu nhiều. Năm 24 tuổi đậu tiến sĩ, nhậm chức Hữu thập di, thẳng thắn can gián. Thời gian chịu tang phụ thân, quyên thần Võ Tam Tư sai Xạ Hồng huyện lệnh Đoàn Giản La thêu dệt tội danh, sau bức hại, làm cho Trần Tử Ngang chết oan trong tù.
Về mặt văn học, ông phản đối tác phong phù diễm của thời sơ Đường, chủ trương khôi phục phong cách Hán Ngụy, phản đối văn phong chủ nghĩa hình thức Tề, Lương. Sáng tác của ông gồm 38 bài thơ, như “Đăng U Châu đài ca”, “ Cảm ngộ”… đánh dấu sự chuyển biến phong cách thơ thời sơ Đường. Bài “Đăng U Châu đài ca” đã được coi là có giá trị trường tồn với thời gian.    

《登幽州台歌》 
Dịch thơ
Nguyễn văn Chử dịch:
BÀI CA LÊN ĐÀI U CHÂU
Phía trước chẳng thấy người xưa,
Đằng sau nào có ai mà ai đâu.
Hay cho trời đất dài lâu,
Để mình ta với lệ sầu tuôn rơi!
                         HCM, 31/10/2013

MƯỜI NỀN ĐẠI VĂN MINH CỔ THẾ GIỚI

Văn minh Sumer: Nằm ở giữa sông Tigris và sông Euphrates (hiện thuộc phần lãnh thổ Irắc). Thời gian liên tục từ năm 3500TCN ~ năm2000 TCN. Thành tựu chủ yếu là phát minh chữ hình nêm sớm nhất trước năm 3000TCN (chữ viết trên mảnh bùn).

Văn minh Ai Cập: Nằm ven bờ sông Nile. Thời gian liên tục từ năm 3100TCN ~ năm 525TCN, Thành tựu chủ yếu là dùng khối đá lớn xây miếu mạo và Kim tự tháp, phát minh chữ tượng hình.

Văn minh Babylon: Nằm ở giữa sông Tigris và sông Euphrates (hiện thuộc phần lãnh thổ Irắc). Thời gian liên tục từ năm 1900TCN ~ năm 538TCN. Thành tựu chủ yếu là chế định pháp luật “Pháp điển Hammurabi” là một trong những pháp luật trên sách lâu đời nhất; tính toán phút giây theo chế độ 60 nấc sớm nhất.

Văn minh Phoenicia: Nằm ở bờ Đông Địa Trung Hải. Thời gian liên tục từ năm 1100TCN ~ năm 842TCN. Thành tựu chủ yếu là phát minh một loại hệ thống chữ cái (sau này chữ cái Hy Lạp được biên soạn theo chữ cái Phoenicia).

Văn minh Hebreux: Nằm ở giữa Israel và Jordanie ngày nay. Thời gian liên tục từ năm 1000TCN ~ năm 587TCN. Thành tựu chủ yếu là sáng tạo ra nền văn học vĩ đại, quan trọng nhất là “Cựu ước toàn thư” trong “Thánh kinh”, viết vào khoảng giữa năm 900TCN ~ năm 150TCN.
 Văn minh Assyria: Nằm ở lưu vực sông Tigris thuộc địa giới Iraq. Thời gian kéo dài từ năm 800TCN đến năm 612 TCN. Thành tựu chủ yếu chính là xây dựng quân đội vĩ đại nhất sử dụng binh khí sắt thép.

Văn minh Hy Lạp: Nằm ở vùng đất phía Nam Hy Lạp ngày nay. Thời gian liên tục từ năm 800TCN ~ năm 197TCN. Thành tựu chủ yếu là kiến tạo nhiều công trình kiến trúc hùng vĩ tráng lệ; viết ra rất nhiều thơ ca và kịch vĩ đại; sinh ra nhiều nhà khoa học và nhà triết học kiệt xuất; đầu tiên phát kiến khái niệm dân chủ.

Văn minh Ba Tư: Nằm ở địa vực rộng lớn từ sông Ấn tới biển Êgie. Thời gian liên tục từ năm 700TCN ~ năm 331TCN. Thành tựu chủ yếu là dùng bùn, gạch và đá xây dựng lên rất nhiều cung điện lớn hùng vĩ; trong những bức bích họa của họ xuất hiện rất nhiều dã thú trong truyền thuyết; sáng lập ra chế độ bưu chính chuyển phát nhanh bằng ngựa nhỏ.

Văn minh La Mã: Nằm trên vùng đất bao la từ La Mã hướng Tây đến Anh hướng Đông đến Mesopotamia, vào thời kỳ cực thịnh của La Mã cổ, văn hóa La Mã phổ cập đến tất cả các quốc gia xung quanh Địa Trung Hải, thời gian liên tục từ năm 735TCN ~ năm 476TCN. Thành tựu chủ yếu là đào tạo ra rất nhiều quan chức hành chính ưu tú; đầu tiên sáng tạo ra chiến thuật chiến lược đột phá trung tâm, từ đó khống chế các vùng xung quanh.

Ngoài 9 nền đại văn minh cổ trên, còn có văn minh cổ Trung Quốc.



S.T


Thứ Năm, 17 tháng 10, 2013

THU PHỐ CA (bài 15) - Lý Bạch

Ch Hán:
秋浦歌 十五
李白
白髮三千丈,
緣愁似個長!
不知明鏡裏,
何處得秋霜?
Âm Hán Việt:
THU PHỐ CA (kỳ 15)
Lý Bạch 
Bạch phát tam thiên trượng,
Duyên sầu tự cá trường!
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương?
Dịch nghĩa:
THU PHỐ CA (bài15)
Tóc trắng trên đầu ta dài đến ba ngàn trượng, chỉ vì nỗi sầu vô cùng tận cũng dài như thế!
Không hiểu ta trong gương sáng kia, từ nơi nao mà có được đầy đầu tóc trắng xóa như sương thu vậy?




Ghi chú:
- "秋浦歌" THU PHỐ CA có 17 bài, bài này là bài 15.
秋浦THU PHỐ nay là một phố tây nam huyện Quý Trì tỉnh An Huy (TQ). Chuyên sản xuất bạc, đồng.
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch:
THU PHỐ CA
(Bài 15)
Tóc ba ngàn trượng trắng phau,
Chỉ vì dằng dặc nỗi sầu vấn vương!
Chẳng hay người ở trong gương,
Từ đâu mà có tóc sương đầy đầu?
HCM, 18/10/2013

Thứ Tư, 16 tháng 10, 2013

NGUỒN GỐC CỦA TUẦN LỄ

Được biết “tuần lễ” là do người lưu vực Lưỡng hà (sông Tigris và sông Euphrates) cổ đại phát minh ra. Ngay từ khoảng năm 2000 TCN, người lưu vực Lưỡng hà đã có thể phân biệt các ngôi sao và hành tinh, nhưng do hạn chế bởi trình độ kiến thức lúc đó, họ cho rằng có tổng cộng 7 hành tinh: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, Mặt trăng, Mặt trời. Trong con mắt họ, trái đất là trung tâm của vũ trụ, chỉ có trái đất là bất động, các tinh cầu còn lại vận chuyển quanh trái đất.
Người Babylon cổ từ sự tròn khuyết của mặt trăng, đã phát hiện đại thể Lịch mặt trời hợp với quy luật: 1 năm 12 tháng, 6 tháng đủ, mỗi tháng 30 ngày, 6 tháng thiếu, mỗi tháng 29 ngày, cả năm có 354 ngày. Đồng thời họ căn cứ vào sự thay đổi của mặt trăng, lấy 7 ngày định làm 1 tuần, trong 7 ngày này, Thượng đế mỗi ngày cử một Thần sao xuống trần gian trực ban, 7 sao tổng cộng trực ban một vòng, nên mới gọi là “một chu kỳ sao” ( tiếng Trung là 星期 :tinh kỳ; tức tuần lễ).

 ST


Thứ Sáu, 4 tháng 10, 2013

XUÔI GIANG LĂNG - Lý Bạch



Chữ Hán:
下江陵
李白
朝辭白帝彩雲間,
千里江陵一日還。
兩岸猿聲啼不住,(不盡)
輕舟已過萬重山。

Âm Hán Việt:
HÁ GIANG LĂNG
Lý Bạch
Triêu từ  Bạch Đế thái vân gian,
Thiên lý Giang Lăng nhất nhật hoàn.
Lưỡng ngạn viên thanh đề bất trụ, (bất tận)
Khinh chu dĩ quá vạn trùng san.

Ghi chú:
Bạch Đế: tên thành, ở huyện Phụng Tiết, tỉnh Tứ Xuyên, TQ ngày nay.
Giang Lăng: tên huyện, thuộc tỉnh Hồ Bắc, TQ.
Bối cảnh: Mùa Xuân năm 759 (năm thứ 2 Càn Nguyên, Đường Túc Tông), Lý Bạch bị cho là dính líu đến vụ án Vĩnh vương Lý Lân, lưu đày đi Dạ Lang. Khi đến Bach Đế thành, bỗng được tin phóng thích, ông vừa kinh ngạc vừa mừng rỡ, liền đi thuyền xuôi hướng đông về Giang Lăng. Bài thơ được làm khi cập bến Giang Lăng, nên tựa đề lấy là “下江陵:Há Giang Lăng (Xuôi Giang Lăng)” còn có tựa khác là “早發白帝: Tảo phát Bạch Đế thành (Buổi sáng, từ thành Bạch Đế ra đi)”
Dịch nghĩa:
XUÔI GIANG LĂNG
Buổi sáng, từ biệt thành Bạch Đế trong bầu trời mây đẹp, huyện Giang Lăng xa ngàn dặm, mà có thể một ngày đã về tới nơi. Hai bờ sông tiếng vượn kêu mãi không dứt, con thuyền nhẹ đã vượt muôn trùng núi non.
Xuôi Giang Lăng



Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử  dịch:
XUÔI GIANG LĂNG
Sáng rời Bạch Đế mây hồng,
Giang Lăng ngàn dặm, về trong một ngày.
Hai bờ vượn hót liên hồi,
Qua muôn trùng núi, nhẹ xuôi con thuyền.
Tp HCM, 22/11/09