Thứ Hai, 28 tháng 7, 2014

KHIỂN HOÀI - Đỗ Mục

Chữ Hán:
 遣懷  
杜牧
落魄江湖載酒行,
楚腰纖細掌中輕。 
十年一覺揚州夢,
贏得青樓薄倖名。
Âm Hán Việt:

KHIỂN HOÀI
Đỗ Mục
Lạc phách giang hồ tái tửu hành, 
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh.
 
Thập niên nhất giác Dương Châu mộng,
 
Doanh đắc thanh lâu bạc hãnh danh
.
Ghi chú:
Sở yêu: Vốn vua Sở rất thích các thiếu nữ có lưng thon nhỏ. Vì thế, về sau người ta thường gọi lưng thon của người con gái là “Sở yêu”.
Chưởng trung khinh: (nhẹ nhàng trong lòng bàn tay) Tương truyền nàng Triệu Phi Yến đời Hán có thân thể rất nhẹ, có thể đứng múa trên lòng bàn tay của lực sĩ.
Dương Châu: nay là huyện Giang Đô, tỉnh Giang Tô, TQ.

Dịch nghĩa:
KHƠI DẬY NỖI LÒNG
Phiêu dạt chốn giang hồ mang rượu theo, đến nơi luôn có những thiếu nữ lưng thon, thân thể nhẹ nhàng như múa được trong lòng bàn tay. Chợt tỉnh mộng mười năm ở Dương Châu, chì còn được cái tiếng phụ bạc trong chốn lầu xanh mà thôi.
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
KHIỂN HOÀI
Giang hồ phiêu bạt rượu say,
Lưng ong gái múa lòng tay nhẹ nhàng.
Dương Châu tỉnh giấc mơ màng,
Lầu xanh phụ bạc, danh mang một đời.

Tháng 7/2014

Thứ Hai, 21 tháng 7, 2014

TẶNG LÚC CHIA TAY (2) - Đỗ Mục

Chữ Hán:

贈別其

杜牧 
多情卻似總無情
唯覺樽前笑不成。
蠟燭有心還惜別,
替人垂淚到天明
Âm Hán Việt:
TẶNG BIỆT K 2

Đỗ Mục
Đa tình khước tự tổng vô tình, 
Duy giác tôn tiền tiếu bất thành. 
Lạp chúc hữu tâm hoàn tích biệt, 
Thế nhân thùy lệ đáo thiên minh.                                                                             

Dịch nghĩa:
TẶNG LÚC CHIA TAY (2)
Đa tình mà lại giống như vô tình, chỉ thấy rằng, trước chén rượu muốn cười mà không được. Ngọn nến có lòng cũng thương tiếc cho cuộc biệt ly, nên thay người nhỏ lệ đến tận sáng.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TẶNG LÚC CHIA TAY (2)
Tình nồng mà tựa vô tình,
Rượu đây, vui vẻ sao đành người ơi.
Nến hồng thương cảnh chia phôi,
Suốt đêm nhỏ lệ cho người cùng ta.
Tháng 7/2014


TẶNG LÚC CHIA TAY (1) - Đỗ Mục

Chữ Hán:
贈別其一
杜牧 
娉娉裊裊十三餘,
荳蔻梢頭二月初。
春風十里揚州路,
卷上珠簾總不如。
Âm Hán Việt:
TẶNG BIỆT K 1

Đỗ Mục
Phinh phinh niệu niệu thập tam dư,
Đậu khấu sao đầu nhị nguyệt sơ.
Xuân phong thập lý Dương Châu lộ,
Quyển thượng châu liêm tổng bất như.                      
Dịch nghĩa:
TẶNG LÚC CHIA TAY (1)
Thân hình mảnh mai thon thả, nàng mới hơn mười ba tuổi, trông tựa như hoa đậu khấu trên ngọn cây mới nở đầu tháng hai. Gió xuân thổi trên mười dặm đường Dương Châu, rèm châu đều cuốn lên, nhưng chẳng có ai bằng được nàng.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TẶNG LÚC CHIA TAY (1)
Duyên xinh tuổi quá mười ba,
Như hoa đậu khấu đầu mùa tháng hai.
Dương Châu gió xuân thổi dài,
Rèm châu cuốn khắp, hỏi ai sánh bằng.
Tháng 7/2014

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

VƯỜN KIM CỐC - Đỗ Mục

Chữ Hán:
金谷園
杜牧 
繁華事散逐香塵,
流水無情草自春。
日暮東風怨啼鳥,
落花猶似墜樓人。
Âm Hán Việt:
KIM CỐC VIÊN

Đỗ Mục
Phồn hoa sự tán trục hương trần, 
Lưu thuỷ vô tình thảo tự xuân. 
Nhật mộ đông phong oán đề điểu, 
Lạc hoa do tự truỵ lâu nhân.                           
Tác giả: Đỗ Mục 
Đỗ Mục (803-852), tự Mục Chi, hiệu Phàn Xuyên; là một nhà thơ thời Vãn Đường trong lịch sử văn học Trung Quốc. Người huyện Vạn Niên, quận Kinh Triệu (nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây). Nội ông là Tể tướng Đỗ Hựu, từng là một viên quan giỏi về lý tài (coi về tiền bạc), và là một sử gia biên soạn sách Thông điển. Anh ông là Phò mã Đỗ Sùng, từng trải đến chức Tiết độ sứ, rồi Tể tướng. Theo tài liệu, Đỗ Mục có dáng thanh tú, tính thích ca vũ, và có tài văn ngay từ lúc nhỏ.
Năm 828 đời Đường Văn Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ lúc 25 tuổi, lại đỗ luôn khoa Hiền lương phương chính, được bổ chức Hiệu thư lang ở Sùng văn quán, rồi lần lược trải các chức: Đoàn luyện tại Giang Tây, Thư ký cho Tiết độ sứ Ngưu Tăng Nhụ ở Hoài Nam, Giám sát ngự sử ở Lạc Dương. Sau đó, ông lần lượt giữ chức Thứ sử tại Hoàng Châu,Từ Châu  Mục Châu. Về sau, ông được triệu về triều làm chức Khảo công lang, Tri chế cáo, rồi làm Trung thư xá nhân.
Đỗ Mục có thanh danh ngang với Lý Thương Ẩn; người đương thời cũng gọi hai ông là Lý Đỗ. Ông còn được gọi là Tiểu Đỗ để phân biệt với Đỗ Phủ là Lão Đỗ.

Ghi chú:
-    Kim - Cốc viên: Vườn Kim Cốc,  tương truyền là nơi xây dinh thự nguy nga của Thạch Sùng, người giàu nhất Trung Quốc thời Tây Tấn. Nơi xảy ra việc Tôn Tú đòi Thạch Sùng tặng cho hắn người thiếp xinh đẹp tên là Lục Châu. Thạch Sùng khước từ, Lục Châu nhảy xuống lầu ở đài Thanh Lương, trong Kim Cốc viên tự tử. Vì việc này, Thạch Sùng bị Tôn Tú gièm pha với Triệu – vương Luân và bị giết chết, về sau vườn Kim Cốc trở thành hoang phế.

Dịch nghĩa
VƯỜN KIM CỐC
Những việc phồn hoa đã tan tác theo lớp bụi thơm, nước chảy vô tình, cỏ vẫn tự tươi thắm. Chiều về chim kêu ai oán trong gió đông, hoa rụng mà  tựa như người rơi từ trên lầu xuống.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
VƯỜN KIM CỐC
Phồn hoa tan theo bụi trần,
Cỏ tươi, sông vẫn vô tình trôi xuôi
Gió chiều, não tiếng chim trời,
Hoa rơi tựa tiếng người rơi xuống lầu.

Tháng  7/2014

Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

NGÕ Ô - Y - Lưu Vũ Tích

Chữ Hán:
烏衣巷
劉禹錫
朱雀橋邊野草花,
烏衣巷口夕陽斜。
舊時王謝堂前燕,
飛入尋常百姓家。
Âm Hán Việt:

Ô - Y HẠNG
Lưu Vũ Tích
Chu - Tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô - Y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
                                                
Tác giả: Lưu Vũ Tích 
Lưu Vũ Tích (772-842) tự: Mộng Đắc, nhà thơ và nhà văn học Trung Quốc thời Trung Đường. Ông là người Lạc Dương (nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam). Nguyên quán tổ tiên ông ở Trung Sơn, nay là huyện Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Trong thời Trinh Nguyên, đời Đường Đức-tông, Lưu Vũ Tích 19 tuổi, đến học ở kinh đô Trường An (nay là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây). Năm 21 tuổi, ông thi đỗ Tiến sĩ, sau lại đỗ thêm khoa Bác học hoằng từ. Ban đầu trông coi việc thư ký cho Đỗ Hựu, sau vào làm giám sát ngự sử.
Dưới thời Đường Thuận Tông, ông cùng với Liễu Tông Nguyên giúp Vương Thúc Văn chấp chính, có đề ra một số biện pháp canh tân. Nhưng không lâu sau, Vương Thúc Văn bị giáng chức, ông cũng bị đưa đi làm Tư mã Lãng Châu (nay là Thường Đức, tỉnh Hồ Nam), bấy giờ ông 33 tuổi. Chín năm sau (814), Lưu Vũ Tích được triệu về kinh đô. Rồi vì bài thơ làm ở Huyền Đô quán (Trường An), xúc phạm giới cầm quyền, ông lại bị đưa đi làm Thứ sử ở Liên Châu (nay là huyện Liên, tỉnh Quảng Đông). Về sau, ông còn làm Thứ sử ở Quỳ Châu và Hòa Châu, có nghĩa là còn bị đày nhiều năm nữa.
Những năm cuối đời, Lưu Vũ Tích về ở Lạc Dương, làm chức quan nhàn tản là Thái tử tân khách (tức làm tân khách của Thái tử). Đến đời Đường Vũ Tông, ông được phong làm Kiểm hiệu Lễ bộ Thượng thư. Năm 842, Lưu Vũ Tích mất, thọ 70 tuổi.
Tác phẩm thi ca của ông có Lưu Tân Khách tập, gồm 40 quyển.

Chú thích:
·          Ô - Y hạngngõ Áo Đen. Tên đất, ở huyện Giang Ninh (bờ nam sông Tần Hoài Nam Kinh). Đời Tấn, Vương Đạo, Tạ An (Vương, Tạ) ở đây; con cháu của hai vọng tộc này đều mặc áo đen, nên miền đất này gọi là Ô - Y hạng (ngõ Áo Đen).
·         -Chu - Tước kiều: cầu Chu Tước, cầu này bắc qua sông Tần Hoài là con đường độc đạo từ trung tâm thành phố đến Ô - Y hạng.

《乌衣巷》

Dịch nghĩa:
NGÕ Ô - Y
Bên cầu Chu Tước chỉ có hoa cỏ dại; đầu ngõ Ô - Y chìm trong ánh nắng chiều. Chim én trước nhà họ Vương, họ Tạ thời xưa, nay bay vào những gia đình dân thường.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
NGÕ Ô - Y
Ngập hoa cỏ dại bên cầu,
Ô - Y ngõ cũ, nắng chiều vàng hoe.
Én lầu Vương, Tạ thuở xưa,
Giờ bay lạc hết sang nhà thường dân.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014



Thứ Hai, 7 tháng 7, 2014

TUYẾT TRÊN SÔNG - Liễu Tông Nguyên

Chữ Hán:
江雪
柳宗元
千山鸟飞绝,
万径人踪灭。
孤舟蓑笠翁,
独钓寒江雪 
Âm Hán Việt:
GIANG TUYẾT
Liễu Tông Nguyên
Thiên sơn điểu phi tuyệt,
Vạn kính nhân tung diệt.
Cô chu thoa lạp ông,
Độc điếu hàn giang tuyết.
Dịch nghĩa:
 TUYẾT TRÊN SÔNG
Trên ngàn ngọn núi, chim đã bay đi hết, trên mọi con đường nhỏ, đã mất hết dấu chân người. Trên con thuyền lẻ loi, ông già mạc áo tơi, đội nón lá, một mình ngồi câu trên sông tuyết lạnh.
Tác giả: Liễu Tông Nguyên 
Liễu Tông Nguyên (773-819), tự Tử Hậu, người Hà Đông, nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây (Trung Quốc). Là nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thời trung Đường,  Ông đỗ tiến sĩ và khoa Bác học hoằng từ đời Đường Đức Tông, làm quan đến chức Giám sát ngự sử.
Thời Đường Thuận Tông, tập đoàn Vương Thúc Văn chấp chính, ra sức cải cách về các mặt chính trị, kinh tế, quân sự; như bãi bỏ chế độ cung thị, bỏ chế độ tiến cống, thả cho nữ nhạc trong cung đình về nhà, trừng trị bọn tham quan ô lại và mưu lấy lại binh quyền từ tay các hoạn quan. Thế nhưng tập đoàn này, mà Liễu Tông Nguyên là một trong những nhân vật chủ yếu, chỉ chấp chính được hơn một trăm bốn mươi ngày, thì bị các thế lực "sắp bị tước mất quyền lợi" chống lại mãnh liệt, nên công cuộc cải cách sớm thất bại thảm hại và bị bức hại tàn khốc... Ngay sau đó, Liễu Tông Nguyên bị giáng chức làm Tư mã Vĩnh Châu (nay là Linh Lăng, Hồ Nam).
Năm 815, thời Đường Hiến Tông thứ mười, ông được bổ nhiệm làm Thứ sử Liễu Châu (nay thuộc tỉnh Quảng Tây), nổi tiếng về tài cai trị; người đương thời gọi là Liễu châu; bốn năm sau (819), ông mất tại đó. Khi ấy, ông chỉ mới 47 tuổi.
          Tác phẩm của Liễu Tông Nguyên hiện còn Liễu Hà Đông tập (Tập thơ văn của họ Liễu ở Hà Đông), 45 quyển, trong đó có 2 quyển Cổ kim thi (Thơ cổ kim) gồm khoảng 140 bài.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TUYẾT TRÊN SÔNG
Ngàn non sạch bóng chim trời,
Muôn đường mất dấu chân người lại qua.
Trên thuyền sông tuyết chiều tà,
Áo tơi, nón lá, ông già ngồi câu.
Tháng7/2014


Thứ Năm, 3 tháng 7, 2014

RA QUAN ẢI - Vương Xương Linh

Chữ Hán:
      
王 昌 齡
秦時明月漢時關,
萬里長征人未還。
但使龍城飛將在,
不教胡馬度陰山。
Âm Hán Việt:
XUẤT TÁI
Vương Xương Linh
Tần thời minh nguyệt, Hán thời quan,
Vạn lý trường chinh nhân vị hoàn.
Đán sử Long thành Phi tướng tại,
Bất giáo Hồ mã độ Âm san.

Dịch nghĩa:
RA QUAN ẢI
Vẫn là vầng trăng đời Tần, vẫn là quan ải thời Hán, những người đi chiến chinh ở nơi xa xôi muôn dặm còn chưa trở lại. Giá mà còn Phi tướng quân ở Long thành, thì sẽ không để cho ngựa giặc Hồ vượt qua núi Âm san.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
XUẤT TÁI
Vẫn đây ải Hán, trăng Tần,
Trường chinh muôn dặm chưa lần khải ca.
Thành Long còn Phi tướng xưa,
Âm San đâu để ngựa Hồ vượt qua.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014

Thứ Ba, 1 tháng 7, 2014

TRƯỜNG CAN HÀNH bài 4 - Thôi Hiệu

Chữ Hán:
长干行 其四
崔顥
三江潮水急,
五湖风浪涌。
由来花性轻,
莫畏莲舟重。
Âm Hán Việt:

TRƯỜNG CAN HÀNH  kỳ 4
Thôi Hiệu
Tam Giang triều thủy cấp,
Ngũ Hồ phong lãng dũng.
Do lai hoa tính khinh,
Mạc úy liên chu trọng
Dịch nghĩa:

TRƯỜNG CAN HÀNH  bài 4
Nước thủy triều Tam Giang lên mạnh, sóng gió trào dâng ở Ngũ Hồ. Loài hoa vốn rất nhẹ, sợ chi thuyền sen nặng không đi được.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRƯỜNG CAN HÀNH - bài 4
Tam Giang đương lúc triều cường,
Ngũ Hồ gió lộngbốn phương sóng trào.
Hoa sen vốn dĩ nhẹ hều,
Thuyền sen nào sợ nặng chèo không đi.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014

TRƯỜNG CAN HÀNH bài 3 - Thôi Hiệu

Chữ Hán:
长干行 其三
崔顥
下渚多风浪,
莲舟渐觉稀。
那能不相待,
独自逆潮归。
Âm Hán Việt:

TRƯỜNG CAN HÀNH  kỳ 3
Thôi Hiệu
Hạ chử đa phong lãng,
Liên chu tiệm giác hy.
Na năng bất tương đãi,
Độc tự nghịch triều quy.
Dịch nghĩa:

TRƯỜNG CAN HÀNH  bài 3
Bãi dưới sóng to gió lớn, thuyên sen mỗi lúc một thưa.
Sao không chờ đợi nhau, về một mình làm chi lúc triều ngược.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRƯỜNG CAN HÀNH  bài 3
Bãi sau sóng cả gió to,
Thuyền sen bỗng chốc một thưa thớt dần.
Không chờ mà khéo vô tình,
Ngược dòng con nước một mình về sao.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014




HÀNH CUNG - Nguyên Chẩn

Chữ Hán:
行宮
元稹
寥落古行宮,
宮花寂寞紅。
白頭宮女在,
閑坐說玄宗
Âm Hán Việt:
HÀNH CUNG
Nguyên Chẩn
Liêu lạc cố hành cung,
Cung hoa tịch mịch hồng.
Bạch đầu cung nữ tại,
Nhàn tọa thuyết Huyền Tông.
Dịch nghĩa:
HÀNH CUNG
Chốn Hành cung xưa thật tiêu điều, chỉ có hoa trong cung vẫn lặng lẽ nở hồng.
Các cung nữ tóc đều đã bạc, rảnh rỗi lại ngồi kể chuyện về vua Huyền Tông thời trước.
Tác giả: Nguyên Chẩn
Nguyên Chẩn (779-831), tự: Vi Chi  nhà thơ Trung Quốc thời Trung Đường.
Ông là người Lạc Dương, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc). Cha mất sớm, nhà nghèo nhưng nhờ thông minh và chăm chỉ học tập, năm 9 tuổi đã biết viết văn, đến 15 tuổi, ông thi đỗ khoa Minh kinh, được bổ chức Hiệu thư lang. Sau đó, ông đỗ chế khoa, được giữ chức Hữu thập di.
Làm quan trong triều, ông thường đấu tranh với các thế lực đang làm lũng đoạn triều chính, trong đó có phe hoạn quan. Nhưng cuối cùng, việc làm này thất bại, ông bị giáng chức làm Sĩ tào tham quân ở Giang Lăng, rồi làm Tư mã ở Thông Châu.
Cuối thời Nguyên Hòa, đời Đường Hiến Tông, được vời về làm Thiện bộ viên – ngoại lang. Bạn thân ông là Bạch Cư Dị, đã cùng đề xướng thể loại “Tân Nhạc phủ”; hai người nổi tiếng về những bài thơ có phong cách bình bị; người đương thời gọi thơ hai ông là Nguyên Hòa thể, và thường đem ra phổ nhạc. Các phi tần trong cung xưng hô ông là Nguyên tài tử. Người đời gọi ghép hai ông là “Nguyên Bạch”.
Năm đầu niên hiệuTrường Khánh (821) nhờ Thôi Đàm Tuấn tiến cử ông được vua Đường Mục Tông (ở ngôi: 820-824) phong làm Từ bộ lang- trung, sau khi nắm giữ một vài chức vụ tại triều, lại bị làm Thứ sử ở Đồng Châu, rồi làm Thứ sử ở Việt Châu kiêm quan sát sứ ở Chiết Đông. Sau về làm Thượng thư tả-thừa, rồi thăng làm Vũ Xương tiết độ sứ.
Nguyên Chẩn là tác giả cuốn truyền kỳ Hội chân ký, là tâm bản của vở tuồng Tây sương ký (tả mối tình của Trương Quân Thụy và Thôi Oanh Oanh) sau này.
Năm 831, Nguyên Chẩn mất tại chức lúc 52 tuổi.
 
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
HÀNH CUNG
Hành Cung chốn cũ tiêu điều,
Chỉ hoa kia vẫn nở đều thắm tươi
Còn cung nữ đã già rồi,
Lâu lâu lại kể chuyện thời Huyền Tông.

Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014