Thứ Hai, 14 tháng 7, 2014

NGÕ Ô - Y - Lưu Vũ Tích

Chữ Hán:
烏衣巷
劉禹錫
朱雀橋邊野草花,
烏衣巷口夕陽斜。
舊時王謝堂前燕,
飛入尋常百姓家。
Âm Hán Việt:

Ô - Y HẠNG
Lưu Vũ Tích
Chu - Tước kiều biên dã thảo hoa,
Ô - Y hạng khẩu tịch dương tà.
Cựu thời Vương Tạ đường tiền yến,
Phi nhập tầm thường bách tính gia.
                                                
Tác giả: Lưu Vũ Tích 
Lưu Vũ Tích (772-842) tự: Mộng Đắc, nhà thơ và nhà văn học Trung Quốc thời Trung Đường. Ông là người Lạc Dương (nay là thành phố Lạc Dương, tỉnh Hà Nam). Nguyên quán tổ tiên ông ở Trung Sơn, nay là huyện Định, tỉnh Hà Bắc (Trung Quốc). Trong thời Trinh Nguyên, đời Đường Đức-tông, Lưu Vũ Tích 19 tuổi, đến học ở kinh đô Trường An (nay là Tây An, thủ phủ tỉnh Thiểm Tây). Năm 21 tuổi, ông thi đỗ Tiến sĩ, sau lại đỗ thêm khoa Bác học hoằng từ. Ban đầu trông coi việc thư ký cho Đỗ Hựu, sau vào làm giám sát ngự sử.
Dưới thời Đường Thuận Tông, ông cùng với Liễu Tông Nguyên giúp Vương Thúc Văn chấp chính, có đề ra một số biện pháp canh tân. Nhưng không lâu sau, Vương Thúc Văn bị giáng chức, ông cũng bị đưa đi làm Tư mã Lãng Châu (nay là Thường Đức, tỉnh Hồ Nam), bấy giờ ông 33 tuổi. Chín năm sau (814), Lưu Vũ Tích được triệu về kinh đô. Rồi vì bài thơ làm ở Huyền Đô quán (Trường An), xúc phạm giới cầm quyền, ông lại bị đưa đi làm Thứ sử ở Liên Châu (nay là huyện Liên, tỉnh Quảng Đông). Về sau, ông còn làm Thứ sử ở Quỳ Châu và Hòa Châu, có nghĩa là còn bị đày nhiều năm nữa.
Những năm cuối đời, Lưu Vũ Tích về ở Lạc Dương, làm chức quan nhàn tản là Thái tử tân khách (tức làm tân khách của Thái tử). Đến đời Đường Vũ Tông, ông được phong làm Kiểm hiệu Lễ bộ Thượng thư. Năm 842, Lưu Vũ Tích mất, thọ 70 tuổi.
Tác phẩm thi ca của ông có Lưu Tân Khách tập, gồm 40 quyển.

Chú thích:
·          Ô - Y hạngngõ Áo Đen. Tên đất, ở huyện Giang Ninh (bờ nam sông Tần Hoài Nam Kinh). Đời Tấn, Vương Đạo, Tạ An (Vương, Tạ) ở đây; con cháu của hai vọng tộc này đều mặc áo đen, nên miền đất này gọi là Ô - Y hạng (ngõ Áo Đen).
·         -Chu - Tước kiều: cầu Chu Tước, cầu này bắc qua sông Tần Hoài là con đường độc đạo từ trung tâm thành phố đến Ô - Y hạng.

《乌衣巷》

Dịch nghĩa:
NGÕ Ô - Y
Bên cầu Chu Tước chỉ có hoa cỏ dại; đầu ngõ Ô - Y chìm trong ánh nắng chiều. Chim én trước nhà họ Vương, họ Tạ thời xưa, nay bay vào những gia đình dân thường.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
NGÕ Ô - Y
Ngập hoa cỏ dại bên cầu,
Ô - Y ngõ cũ, nắng chiều vàng hoe.
Én lầu Vương, Tạ thuở xưa,
Giờ bay lạc hết sang nhà thường dân.
Bà Rịa - Vũng Tàu tháng 7/2014



Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét