Chữ Hán:
尋隱者不遇
賈島
松下問童子,
言師採藥去。
只在此山中,
雲深不知處。
|
Âm Hán Việt:
TẦM ẨN GIẢ BẤT NGỘ
Giả Đảo
Tùng hạ vấn đồng tử,
Ngôn sư thái dược khứ.
Chỉ tại thử sơn
trung,
Vân thâm bất tri xứ.
|
Dịch nghĩa:
TÌM NGƯỜI Ở ẨN
MÀ KHÔNG GẶP
Dưới rừng thông, hỏi
thăm chú tiểu đồng về người ẩn dật, chú đáp rằng, sư phụ tôi đi hái thuốc. Chỉ
ở trong núi này thôi, nhưng vì mây mù nên không biết ở chỗ nào.
|
Tác giả: Giả Đảo
Giả Đảo (739
– 865) tên chữ: Lãng Tiên, hiệu: Kiệt Thạch Sơn Nhân, người Phạm Dương,
tỉnh Hà Bắc, Trung
Quốc. Ông là nhà thơ thời Trung Đường, Trung
Quốc.
Thời trẻ, ông đi thi nhiều lần không đỗ, đi làm
tăng tại Lạc Dương, pháp danh là Vô
Bản. Thường làm thơ than thân, có câu: “Bất như ngưu dữ dương, Do đắc nhật
mộ quy”. (Không bằng kiếp trâu dê, tối đến còn có chỗ về). Sau một thời gian ngụ
tại chùa Thanh Long kinh đô Trường
An; nghe lời khuyên của Hàn Dũ, đổi mặc áo nho sinh (hoàn tục). Năm 821
(đời Đường Mục tông) vì làm thơ chỉ trích qun tể - tướng, bị trục xuất khỏi
kinh thành. Sau cũng từng làm quan, nhưng hay bài bác, bị biếm ra làm chủ bạ
tại Trường Giang Lúc đó ông đã năm mươi tuổi. Năm sáu mươi hai, ông được đổi
làm Tư thương tham quân ở Phổ Châu (nay là An Nhạc, tỉnh Tứ
Xuyên), đổi làm chức tư - hộ, nhưng chưa kịp tựu chức thì mắc bệnh chết năm
65 tuổi.
Khi ở Trường An, có lần Giả Đảo đi giữa đường ngâm
nga tìm vế đối cho câu thơ “Lạc diệp mãn Trường An” (Lá rụng đầy Trường An),
chợt nghĩ ra câu “Thu phong xuy Vị thủy” (Gió thu thổi sông Vị), thì xô phải
Kinh Triệu doãn Lưu Thế Sở, bị trói mất một buổi chiều. Lại có lần cưỡi lừa
ngâm thơ, được hai câu “Điểu túc trì biên thụ, tăng xao nguyệt hạ môn”. (Chim
ngủ cây bên ao, sư gõ cửa dưới trăng); đang do dự không biết nên dùng chữ
“thôi 推” (đẩy), hay chữ “xao 敲” (gõ), vừa đi vừa đưa tay làm điệu bộ, không để ý
đến xe của Kinh Triệu doãn đi tới, nhưng may thay quan Kinh Triệu doãn lần này
lại là Hàn Dũ, Hàn Dũ dừng xe hỏi chuyện, khuyên dùng chữ “xao”, rồi mời ông
lên xe cùng bàn luận thơ. (Thành ngữ “thôi xao” (cân nhắc) từ điển cố này mà
ra.)
Tương truyền mỗi năm cứ đến đêm trừ tịch, Giả Đảo
đem hết thơ làm trong năm bày lên án, đốt hương vái lạy, rót rượu đổ xuống đất
nói rằng: “đây là nỗi khổ tâm của ta trong suốt năm qua!” Vì ông cùng với Mạnh Giao, đều có tác phong “khổ ngâm”
trong khi làm thơ, nên Tô Đông Pha gọi là “Giao hàn, Giả sấu” (Giao lạnh, Giả
gầy)
Tác phẩm của ông để lại là Trường Giang tập, gồm 10 quyển.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TÌM NGƯỜI Ở ẨN MÀ KHÔNG GẶP
Dưới
thông ta hỏi tiểu đồng,
Chú
thưa, thày hái thuốc không ở nhà.
Chỉ
quanh núi này chẳng xa,
Nhưng
mây giăng kín, biết là chốn nao.
Tháng 8/2014