Thứ Ba, 26 tháng 8, 2014

QUÁN GIỮA RỪNG TRE - Vương Duy

Chữ Hán:
竹 里 館   
王 維
獨坐幽篁裏,
彈琴複長嘯。
深林人不知,
明月來相照。
Âm Hán Việt:

TRÚC LÝ QUÁN
Vương Duy
Độc tọa u hoàng lý
Đàn cầm phục trường khiếu
Thâm lâm nhân bất tri
Minh nguyệt lai tương chiếu 
Dịch nghĩa:

QUÁN GIỮA RỪNG TRE
Một mình ngồi trong rừng tre um tùm, ta gẩy đàn rồi lại huýt sáo. Trong rừng sâu, không ai biết được, chỉ có trăng sáng đến chiếu lên người.

(图)《竹里馆》 

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
QUÁN GIỮA RỪNG TRE
Một mình ngồi giữa rừng tre,
Gảy đàn rồi huýt sáo nghe một mình.
Rừng sâu nào kẻ thấu tình,
Chỉ vầng trăng chiếu lung linh trên đầu.
Tháng 8/2014

Thứ Sáu, 22 tháng 8, 2014

OÁN TÌNH - Lý Bạch

Chữ Hán:


美人卷珠簾,

深坐顰蛾眉。 
但見淚痕濕,
不知心恨誰
Âm Hán Việt:

OÁN TÌNH
Lý Bạch 
Mỹ nhân quyển châu liêm,
Thâm tọa tần nga my. 
Đản kiến lệ ngân thấp, 
Bất tri tâm hận thùy. 
Dịch nghĩa:

HẬN TÌNH
Người đẹp cuốn rèm châu lên, trau mày ngài ngồi lặng hồi lâu. Chỉ thấy ngấn lệ ướt, không hay trong lòng nàng hận ai.


Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
HẬN TÌNH
Rèm châu nàng cuốn hết lên,
Mày ngài chau nhíu lặng yên ngồi hoài.
Thấy trên gò má lệ dài,
Chẳng hay nàng đã hận ai trong lòng.
Tháng 8/2014

Thứ Hai, 11 tháng 8, 2014

SẮP ĐI THI DÂNG QUAN THỦY BỘ HỌ TRƯƠNG - Chu Khánh Dư

Chữ Hán:
近試上張水部
朱慶餘        
洞房昨夜停紅燭,
待曉堂前拜舅姑。    
妝罷低聲問夫婿,
畫眉深淺入時無?
Âm Hán Việt:
CẬN THÍ THƯỚNG TRƯƠNG THỦY BỘ
Chu Khánh Dư
Động phòng tạc dạ đình hồng chúc, 
Đãi hiểu đường tiền bái cữu cô. 
Trang bãi đê thanh vấn phu tế, 
Họa mi thâm thiển nhập thì vô? 
Tác giả: Chu Khánh Dư
Chu Khánh Dư ( ? - ?) Tên là Khả Cửu, Khánh Dư là tên tự của ông. Người Mân Trung (nay là Phúc Kiến), TQ; cũng có sách ghi là người Việt Châu (nay thuộc Thiệu Hưng Triết Giang), TQ. Thi đậu tiến sĩ đời Bảo Lịch (825 – 827), đời Đường Kính tông. Trước khi đi thi, Khánh Dư làm bài thơ “Khuê ý” với câu đầu là Động phòng tạc dạ đình hồng chúc” dâng lên Trương Tịch (lúc này nhậm chức Thủy bộ viên ngoại lang) Trương tịch làm thơ đáp lại, nhờ đó tiếng tăm họ Chu lan rộng khắp nơi.

Bài thơ cận thí thướng Trương Thủy bộ là bài thơ ứng thí tiến sĩ của Chu Khánh Dư trình Trương Tịch. Trong thơ ví mình như tân nương, Trương Tịch như tân lang, cha mẹ chồng ví như  quan chủ khảo, để trưng cầu ý kiến Trương Tịch. Linh hồn của bài thơ là 3 chữ câu cuối “nhập thì vô?” (hợp thời không? )Ý hỏi văn chương của mình có thích hợp không.

Ghi chú:
張水部: Trương Thủy bộ, tức Trương Tịch (Trương Tịch từng nhậm chức Thủy bộ viên ngoại lang).
洞房(động phòng): 新婚卧室: (Phòng ngủ đêm tân hôn).
停红烛(đình hồng chúc) có nghĩa là giữ cho nến hồng cháy (suốt đêm). (Phong tục của người Trung Hoa trong đêm động phòng là để nến hồng cháy cả đêm chứ không tắt). Nhiều người dịch là “tắt ngọn nến hồng” hoặc “tắt ngọn đuốc hoa” theo thiển ý của tôi là sai. Chữ “”(đình) ở đây có nghĩa giữ lại, lưu lại (cho nến cháy).

朱庆馀 近试上张水部

Dịch nghĩa:
SẮP ĐI THI DÂNG QUAN THỦY BỘ HỌ TRƯƠNG
Trong phòng tân hôn, đêm qua nến hồng cháy suốt đêm, đợi sáng ra, lên trước nhà chính, lạy chào cha mẹ chồng. Sau khi trang điểm xong, khẽ hỏi chồng: “nét mày tô vẽ đậm nhạt thế này có hợp thời không?”
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
SẮP ĐI THI DÂNG QUAN THỦY BỘ HỌ TRƯƠNG
Động phòng, đêm thắp nến hồng,
Sáng lên trình diện lạy mừng mẹ cha.
Điểm trang xong hỏi chồng là:
“Nét mày đậm lạt, có hài hòa không”.
Tháng 8/2014


Thứ Ba, 5 tháng 8, 2014

CHUNG NAM VỌNG DƯ TUYẾT - Tổ Vịnh

Chữ Hán:
 
終南陰嶺秀

積雪浮雲端
 
林表明霽色
 
城中增暮寒
 
Âm Hán Việt:
CHUNG NAM 
VỌNG DƯ TUYẾT
Tổ Vịnh
Chung Nam âm lĩnh tú 
Tích tuyết phù vân đoan 
Lâm biểu minh tễ sắc 
Thành trung tăng mộ hàn. 
Dịch nghĩa:
NGẮM TUYẾT CÒN LẠI TRÊN NÚI CHUNG NAM
Mặt núi phía bắc Chung Nam phô vẻ đẹp đẽ, tuyết còn đọng lại như nổi trôi trên mây. Bìa  rừng quang tạnh, trời hửng nắng, trong thành lúc chiều tối càng tăng thêm cái lạnh.
Tác giả: Tổ Vịnh
Tổ Vịnh (699 – 746?) ( -741- ) người Lạc Dương (nay thuộc tỉnh Hà Nam, TQ), đậu tiến sĩ năm Khai Nguyên thứ 20. Từng được Trương Thuyết tiến cử, nhậm chức Giá bộ viên ngoại lang thời gian ngắn. Thơ ông viết nhiều về cảnh vật, ca ngợi cuộc sống ẩn dật. “CHUNG NAM VỌNG DƯ TUYẾT” là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông.

Chú thích:
1/ 阴岭: (Âm lĩnh) Ngọn núi phía Bắc, quay lưng về phía mặt trời nên gọi là “âm”
2林表: (Lâm biểu) bìa rừng, phía ngoài rừng.
3/ 霁色: (Tễ sắc) trời nắng lên sau mưa, tuyết.

Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
CHUNG NAM VỌNG DƯ TUYẾT
Chung Nam núi đẹp mượt mà,
Trắng ngần tuyết đọng như là mây trôi.
Trời quang rừng hửng nắng rồi,
Trong thành chiều tối đất trời lạnh thêm.
Tháng 8/2014

Chủ Nhật, 3 tháng 8, 2014

KHUYẾT ĐỀ - Lưu Thận Hư

Chữ Hán:
闕題

劉慎虛

道由白雲盡,
春與青溪長。
時有落花至,
遠聞流水香。
閒門向山路,
深柳讀書堂。 
幽映每白日,
清輝照衣裳。
Âm Hán Việt:

KHUYẾT ĐỀ
Lưu Thận Hư
Đạo do bạch vân tận,
Xuân dữ thành khê trường.
Thời hữu lạc hoa chí,
Viễn tùy lưu thủy hương.
Nhàn môn sơn hướng lộ,
Thâm liễu độc thư đường.
U ánh mỗi bạch nhật,
Thanh huy chiếu y thường.

Dịch nghĩa:

KHUYẾT ĐỀ
Đường đi hết từ chỗ có mây trắng, mùa xuân dài cùng với dòng suối xanh. Thỉnh thoảng có đóa hoa rụng bay đến, trôi theo dòng nước chảy ra xa thơm ngát.
Cổng nhà thanh nhàn trông ra đường núi, trong lùm liễu rậm, có ngôi nhà đọc sách. Chỗ u tối này mỗi khi có bóng mặt trời soi vào, thì ánh sáng lại chiếu lên áo xiêm.

Tác giả: Lưu Thận Hư 劉慎虛(刘眘虚)

Lưu Thận , tự Toàn ất, cũng lấy tự Đĩnh Khanh, hiệu Dịch Hiên sinh khoảng năm 702 -705 mất khoảng năm 756 -759. Người Tân Ngô (nay là huyện Phụng Tân Giang Tây, TQ). 9 tuổi đã biết viết văn, được vua triệu kiến, cho làm Đồng tử lang. Năm 723 (Năm Khai Nguyên thứ 21, Đường Huyền tông), thi đậu tiến sĩ. Được bổ chức úy tại Lạc Dương, rồi đổi làm chức lệnh tại huyện Hạ. tính tình cao ngạo, không mộ danh lợi, thường giao du với các sơn tăng, đạo sĩ. Mất lúc 54 tuổi
Ghi chú:
闕題: (khuyết đề) tức thiếu đề bài. Vì thơ thiếu đề bài, người sau biên tập lại, lấy “khuyết đề” làm tên.


Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
KHUYẾT ĐỀ
Đường đi tít tắp mây ngàn,
Mùa xuân còn mãi cùng làn suối xanh.
Hoa rơi lả tả vòng quanh,
Thơm trôi theo nước trong lành ra xa.
Cổng nhàn, đường núi trước nhà,
Trong lùm liễu rủ ngân nga thư phòng.
Mặt trời lên sắc trời trong,
Ánh dương chiếu rọi thêm hồng xiêm y.
Tháng 8/2014

XUÂN OÁN - Kim Xương Tự

Chữ Hán:
春怨 
金昌緒
打起黃鶯兒,
莫教枝上啼。
啼時驚妾夢,
不得到遼西。 
Âm Hán Việt:
XUÂN OÁN
Kim Xương Tự
Đả khởi hoàng oanh nhi,
Mạc giao chi thượng đề.
Đề thời kinh thiếp mộng,
Bất đắc đáo Liêu Tây.
Dịch nghĩa:
NỖI OÁN XUÂN
Hãy đuổi cái con chim oanh vàng, đừng để nó hót trên cành. Vì mỗi khi nó hót làm tan giấc mộng đẹp của thiếp, khiến không đến được Liêu Tây (để gặp chàng).

 Tác giả: Kim Xương Tự

 Kim Xương Tự là nhà thơ đời Đường, TQ. Không rõ năm sinh năm mất; là người Dư Hàng (Tiền Đường), (nay là thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang). Thơ để lại chỉ thấy một bài Xuân oán.

Ghi chú:

-          Xuân oán: (Nỗi oán xuân) còn có tựa đề khác là “ Y châu ca”.
-     Liêu Tây: Chỉ vùng đất bao gồm Doanh Châu, Nhạn Châu phía tây sông Liêu đời Đường, TQ. Tức nay là vùng từ Cẩm Châu, Triều Dương tỉnh Liêu Ninh đến Hoài Nhu, Thuận Nghĩa đông bắc thành phố Bắc Kinh, TQ. Đời Tùy, đất này có tên cũ thời Tần Hán là quận Liêu Tây, thuộc về Doanh Châu, thời sơ Đường đổi là Nhạn Châu, thuộc huyện Liêu Tây. (Đời Đường có lính đồn trú tại đây)
Kim Xương Tự

Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
XUÂN OÁN
Đuổi ngay cái con chim oanh,
Đừng cho nó mãi trên cành hót trêu.
Làm tan giấc mộng mỹ miều,
Thiếp không đến được tây Liêu gặp chàng.
Tháng 8/2014

Thứ Bảy, 2 tháng 8, 2014

LŨNG TÂY HÀNH - Trần Đào

Chữ Hán:
隴西行 
陳陶
誓掃匈奴不顧身,
 
五千貂錦喪胡塵。
 
可憐無定河邊骨,
 
猶是深閨夢裡人。
 
Âm Hán Việt:

LŨNG TÂY HÀNH 
Trần Đào
Thệ tảo Hung Nô bất cố thân 
Ngũ thiên điêu cẩm táng Hồ trần 
Khả liên Vô Định hà biên cốt 
Do thị xuân khuê mộng lý nhân.                                         
Tác giả: Trần Đào
Trần Đào ( - 841 - ) (khoảng 812 – 885?) là nhà thơ đời Đường TQ, tự là Tung Bá. Người huyện Hà Dương (tỉnh Giang Tây). Nhiều lần thi không đậu, về ở ẩn, tự xưng là “Tam bố giáo y” (Kẻ áo vải của ba giáo). Trong thời Đại Trung đời Đường Tuyên tông, đến tránh loạn ẩn cư tại núi Tây sơn, Hồng Châu (thị trấn Nam Xương, tỉnh Giang Tây ngày nay); Sau đó không ai rõ về ông nữa.
Ghi chú:
Lũng Tây hành: là đề mục trong khúc hát nhạc phủ cũ. Lũng Tây là địa danh, miền đất thuộc tỉnh Cam Túc (TQ) ngày nay.
Điêu cẩm: Mũ da điêu và áo cẩm bào, -  nghĩa ở đây chỉ quân sĩ tinh nhuệ.
Vô Định hà: sông Vô Định, nằm ở phía bắc Thiểm Tây, TQ
Xuân khuê: Nghĩa ở đây chỉ vợ của người lính chết trận.
Hung nô: Chỉ bộ tộc biên giới tây bắc TQ.

Dịch nghĩa:
BÀI CA LŨNG TÂY 
Thề quét sạch giặc Hung Nô chẳng tiếc thân mình, năm nghìn quân, tướng mặc áo gấm, đội mũ da điêu vùi thây trong lớp bụi Hồ. Đáng thương cho nắm xương bên bờ sông Vô Định, vẫn còn là người trong mộng chốn phòng khuê mùa xuân.

Trần Đào

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
BÀI CA LŨNG TÂY 
Diệt Hung nô, nguyện quên mình,
Năm ngàn tướng lính vùi thân bụi Hồ.
Ven sông Vô Định, xương khô,
Phòng khuê xao xuyến trong mơ vẫn người.

Tháng 8/2014

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2014

TÌM NGƯỜI Ở ẨN MÀ KHÔNG GẶP - Giả Đảo

Chữ Hán:
尋隱者不遇
賈島
松下問童子,
言師採藥去。
只在此山中,
雲深不知處。
Âm Hán Việt:

TẦM ẨN GIẢ BẤT NGỘ
Giả Đảo
Tùng hạ vấn đồng tử,
Ngôn sư thái dược khứ.
Chỉ tại thử sơn trung,
Vân thâm bất tri xứ.
Dịch nghĩa:
TÌM NGƯỜI Ở ẨN
 MÀ KHÔNG GẶP
Dưới rừng thông, hỏi thăm chú tiểu đồng về người ẩn dật, chú đáp rằng, sư phụ tôi đi hái thuốc. Chỉ ở trong núi này thôi, nhưng vì mây mù nên không biết ở chỗ nào. 
Tác giả: Giả Đảo 
Giả Đảo (739 – 865) tên chữ: Lãng Tiên, hiệu: Kiệt Thạch Sơn Nhân, người Phạm Dương, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc. Ông là nhà thơ thời Trung Đường, Trung Quốc.
Thời trẻ, ông đi thi nhiều lần không đỗ, đi làm tăng tại Lạc Dương, pháp danh là Vô Bản. Thường làm thơ than thân, có câu: “Bất như ngưu dữ dương, Do đắc nhật mộ quy”. (Không bằng kiếp trâu dê, tối đến còn có chỗ về). Sau một thời gian ngụ tại chùa Thanh Long kinh đô Trường An; nghe lời khuyên của Hàn Dũ, đổi mặc áo nho sinh (hoàn tục). Năm 821 (đời Đường Mục tông) vì làm thơ chỉ trích qun tể - tướng, bị trục xuất khỏi kinh thành. Sau cũng từng làm quan, nhưng hay bài bác, bị biếm ra làm chủ bạ tại Trường Giang Lúc đó ông đã năm mươi tuổi. Năm sáu mươi hai, ông được đổi làm Tư thương tham quân ở Phổ Châu (nay là An Nhạc, tỉnh Tứ Xuyên), đổi làm chức tư - hộ, nhưng chưa kịp tựu chức thì mắc bệnh chết năm 65 tuổi.
Khi ở Trường An, có lần Giả Đảo đi giữa đường ngâm nga tìm vế đối cho câu thơ “Lạc diệp mãn Trường An” (Lá rụng đầy Trường An), chợt nghĩ ra câu “Thu phong xuy Vị thủy” (Gió thu thổi sông Vị), thì xô phải Kinh Triệu doãn Lưu Thế Sở, bị trói mất một buổi chiều. Lại có lần cưỡi lừa ngâm thơ, được hai câu “Điểu túc trì biên thụ, tăng xao nguyệt hạ môn”. (Chim ngủ cây bên ao, sư gõ cửa dưới trăng); đang do dự không biết nên dùng chữ “thôi ” (đẩy), hay chữ “xao ” (gõ), vừa đi vừa đưa tay làm điệu bộ, không để ý đến xe của Kinh Triệu doãn đi tới, nhưng may thay quan Kinh Triệu doãn lần này lại là Hàn Dũ, Hàn Dũ dừng xe hỏi chuyện, khuyên dùng chữ “xao”, rồi mời ông lên xe cùng bàn luận thơ. (Thành ngữ “thôi xao” (cân nhắc) từ điển cố này mà ra.)
Tương truyền mỗi năm cứ đến đêm trừ tịch, Giả Đảo đem hết thơ làm trong năm bày lên án, đốt hương vái lạy, rót rượu đổ xuống đất nói rằng: “đây là nỗi khổ tâm của ta trong suốt năm qua!” Vì ông cùng với Mạnh Giao, đều có tác phong “khổ ngâm” trong khi làm thơ, nên Tô Đông Pha gọi là “Giao hàn, Giả sấu” (Giao lạnh, Giả gầy)
Tác phẩm của ông để lại là Trường Giang tập, gồm 10 quyển.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TÌM NGƯỜI Ở ẨN  MÀ KHÔNG GẶP
Dưới thông ta hỏi tiểu đồng,
Chú thưa, thày hái thuốc không ở nhà.
Chỉ quanh núi này chẳng xa,
Nhưng mây giăng kín, biết là chốn nao.
Tháng 8/2014