Thứ Hai, 27 tháng 10, 2014

TĨNH DẠ TƯ - Lý Bạch

Chữ Hán:
夜思
李白
床前明月光,
疑是地上霜
擧頭望明月
低頭思故鄉。
Âm Hán Việt:
TĨNH DẠ TƯ
Lý Bạch

Sàng tiền minh nguyệt quang,
Nghi thị địa thượng sương.
Cử đầu vọng minh nguyệt,
Đê đầu tư cố hương.
Dịch nghĩa:
 ĐÊM LẶNG NHỚ QUÊ

Ánh trăng chiếu sáng trước giường, cứ ngỡ như sương trên mặt đất. ngẩng đầu ngắm vầng trăng sáng, cúi đầu lại nhớ đến quê hương.

 

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐÊM LẶNG NHỚ QUÊ
Đầu giường trăng rọi sáng ngời,
Ngỡ như khắp chốn bời bời sương sa.
Ngẩng đầu ngắm chị Hằng Nga,
Cúi đầu sực nhớ quê cha vô ngần.
10/2014

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2014

PHẬT NHẢY TƯỜNG

“Phật nhảy tường” là đại biểu “đầu bảng” của món ăn Mân (TQ), đó là một món súp nổi tiếng có đầy đủ sơn hào hải vị, được danh tiếng là “món ăn quốc gia, đứng đầu món ăn Mân”. Món ăn này dùng trên 20 loại nguyên liệu quý hiếm như thích sâm, quảng đỗ, vi cá, bào ngư, dao trụ, trứng bồ câu, gân chân bò, gà, vịt…, thêm vào nước hầm xương, rượu Thiệu, củ cải trắng…, gói chặt bằng lá sen đặt trong một chiếc nồi sành, hầm từ từ bằng lửa nhỏ mà thành. Món “Phật nhảy tường” này đến nay đã có lịch sử hơn một trăm năm, về lai lịch của nó, còn có một truyền thuyết đẹp.
Tương truyền, đời Thanh có một tốp khách văn thơ du xuân dã ngoại ở vùng ngoại ô Phúc Châu, họ bỏ chung hơn 20 thứ sơn hào hải vị của mỗi người tự mang đến vào chung một cái nồi sành, trong lúc ngâm vịnh thơ, để nhỏ lửa ninh hầm từ từ. Sau khi mọi thức trong nồi đã chín, mùi thơm khôn tả, mùi thơm ấy theo gió bay vào một ngôi chùa cổ gần đó, hấp dẫn đến nỗi một tốp hòa thượng phải nhảy tường tìm đến, muốn thưởng thức vị lạ. Trong đó có một có một vị dáng vẻ tú tài, không nín được liền phú một câu thơ (được dịch ra) là:
“Hương thơm ngào ngạt ngất ngây,
PHẬT thiền chẳng được NHẢY ngay qua TƯỜNG.”
 “Phật nhảy tường” từ đó thành tên món ăn này. Ngày nay “Phật nhảy tường” đã theo Hoa kiều Phúc Kiến nổi danh ở hải ngoại.



ST

Thứ Tư, 15 tháng 10, 2014

CẦU LÔNG

Môn cầu lông là diễn biến dần từ trò chơi cầu lông cổ đại mà ra. Theo ghi chép, hoạt động trò chơi cầu lông, ít nhất vào 2000 năm trước đã thịnh hành ở một số quốc gia Á Âu. Nhưng các quốc gia, vùng, dân tộc khác nhau cũng gọi tên môn chơi này khác nhau, trò chơi cầu lông nguyên thủy ở Trung Quốc gọi là “kiện cầu”, Ấn Độ gọi là “phổ na”, nhưng về hình thức và tính chất của nó thì cơ bản giống nhau.
Các tư liệu liên quan cho thấy, môn cầu lông hiện đại bắt nguồn từ Ấn Độ, hình thành và phát triển ở nước Anh. Những năm 60 của thế kỷ 19, một tốp sĩ quan quân đội Anh giải ngũ đem “phổ na” – một trò chơi tương tự như môn cầu lông hiện đại từ Ấn Độ về Anh, đồng thời cải tiến thêm, dân dần trở thành môn cầu lông hiện đại. Năm 1870, nước Anh xuất hiện cầu làm bằng lông vũ và gỗ mềm, vợt cầu đan dây.

Vào một ngày năm 1873, công tước Bao Fote nước Anh đã tổ chức một hoạt động xã giao của gia đình tại trang trại Badminton thuộc quận Glasgow. Hôm ấy gặp thời tiết xấu, trời mưa như trút nước, trong trang trại chỗ nào cũng ngập nước, những người khách đến thăm đành đợi ở trong nhà. Thời gian kéo dài, mọi người cảm thấy vô cùng buồn tẻ, lúc này trong số họ có một sĩ quan quân đội giải ngũ từ Ấn Độ trở về đề nghị, chơi trò chơi “phổ na” đã được cải tiến tại đại sảnh trong trang trại của công tước. Do trò chơi cuốn hút, làm cho các quý tộc có mặt mở rộng tầm mắt. Từ đó, tên của trang trại Badminton trở thành tên tiếng Anh của môn cầu lông hiện đại này, tên của nó đánh dấu sự bắt đầu của môn cầu lông hiện đại. Môn cầu lông bắt nguồn từ một trò chơi của quý tộc Anh, nên người ta gọi nó là môn chơi quý tộc. Sau đó, môn cầu lông từ châu Âu được truyền đi châu Mỹ, châu Đại Dương, châu Á và châu Phi, phát triển thành môn cầu lông mà ngày nay mọi người đều quen thuộc và yêu thích.
ST

NGỌN LỬA THIÊNG THẾ VẬN HỘI OLYMPIC

Ngọn lửa thiêng bắt nguồn từ truyền thuyết thần thoại Hy Lạp cổ. Thần Hy Lạp cổ Prometheus muốn giải cứu nhân loại thoát khỏi cơ hàn, giấu thần Zeus trộm giống lửa đem về nhân gian, lửa vừa về tới nhân gian thì không thu hồi lại được nữa. Zeus đành quy định trước khi đốt lửa thiêng, phải cúng tế ông ta. Theo câu chuyện thần thoại này, Lễ hội Thể thao Olympic cổ trước khi khai mạc phải cử hành nghi lễ châm lửa long trọng.

Sau khi Thế vận hội Olympic hiện đại phục hồi, Coubertin đã đề xuất kiến nghị đốt lửa thiêng Olympic. Tại Thế vận hội Olympic Amsterdam năm 1928, lửa thiêng Thế vận hội Olympic lần đầu tiên xuất hiện. Từ năm 1936 trở đi, lửa thiêng Thế vận hội Olympic được đốt lên đầu tiên tại Olympia Hy Lạp quê hương của Thế vận hội Olympic, và trước 1 ngày khai mạc Thế vận hội Olympic được đưa đên thành phố tổ chức lúc lễ khai mạc đưa vào hội trường, thông thường do vận động viên nổi tiếng nước chủ nhà châm lửa lên tháp, mãi đến khi bế mạc mới tắt. Ngọn lửa thiêng Thế vận hội Olympic tượng trưng cho quang minh, đoàn kết, hữu nghị, hòa bình, chính nghĩa.
ST

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2014

Ở LẠI ĐÊM BÊN SÔNG KIẾN ĐỨC - Mạnh Hạo Nhiên

Chữ Hán:
宿建德江 
孟浩然
移舟泊煙渚,
日暮客愁新。 
野曠天低樹,
江清月近人。 
Âm Hán Việt:

TÚC KIẾN ĐỨC GIANG
Mạnh Hạo Nhiên
Di chu bạc yên chử, 
Nhật mộ khách sầu tân. 
Dã khoáng thiên đê thụ, 
Giang thanh nguyệt cận nhân. 

Dịch nghĩa:
Ở LẠI ĐÊM BÊN SÔNG 
KIẾN ĐỨC
Dời thuyền đến đậu bên bến sông đầy khói, chiều tối nỗi buồn của khách vừa chợt khơi lên.
Ðồng rộng mênh mông trời dường như kề sát xuống hàng cây, mặt sông trong vắt trăng đến gần người.


Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
Ở LẠI ĐÊM BÊN SÔNG KIẾN ĐỨC
Dời thuyền đến đậu bãi mờ,
Trời chiều khách chợt vẩn vơ sầu buồn.
Đồng không trời thấy thấp hơn,
Sông trong trăng xuống gần luôn bên người.
10/2014



Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

Ở LẠI ĐÊM TẠI NƠI Ở ẨN CỦA VƯƠNG XƯƠNG LINH - Thường Kiến

Chữ Hán:
宿王昌齡隱居 
常建 
清溪深不測,
隱處唯孤雲。 
松際露微月,
清光猶為君。 
茅亭宿花影,
藥院滋苔紋。 
余亦謝時去,
西山鸞鶴群
Âm Hán Việt:
TÚC VƯƠNG XƯƠNG LINH 
ẨN CƯ
Thường Kiến 
Thanh khê thâm bất trắc, 
Ẩn xứ duy cô vân. 
Tùng tế lộ vi nguyệt, 
Thanh quang do vị quân. 
Mao đình túc hoa ảnh, 
Dược viện tư đài văn. 
Dư diệc tạ thời khứ, 
Tây sơn loan hạc quần. 

Dịch nghĩa:
Ở LẠI ĐÊM TẠI NƠI Ở ẨN CỦA VƯƠNG XƯƠNG LINH.
Dòng suối trong sâu thẳm, không do lường nổi, trong nơi ở ẩn chỉ có đám mây cô đơn. Giữa rừng thông hé lộ bóng trăng, vẫn soi ánh sáng trong vì bạn.
Bóng hoa như ngủ bên lều tranh, vườn thược dược  mọc lên những vệt rêu. Ta cùng muốn tạ từ thế tục, đến với bầy chim loan, hạc ở núi Tây Sơn.
Tác giả: Thường Kiến
Thường Kiến (708-765?)Nhà thơ đời Đường TQ. Không rõ tự hiệu. Không rõ quê quán; “ Truyện Đường tài tử” nói là người Trường An (nay là Tây An, Thiểm Tấy, TQ). Năm Khai Nguyên thứ 15 (727) đỗ tiến sĩ cùng Vương Xương Linh. Chỉ làm quan nhỏ đến chức úy thời Đại Lịch. Cả đời trầm luân thất ý; bất đắc chí về công danh. Sống một cuộc sống bồng bềnh thời gian dài; giao du danh lam thắng cảnh, sau ở ẩn tại Tây Sơn, Ngạc Chử. Thơ ông chủ yếu lấy đề tài là sơn thủy điền viên.
Giải thích một số từ ngữ trong bài thơ:
1.  宿Túc: Tỷ dụ (bóng hoa) yên lặng như ngủ.
2.  藥院Dược viện: vườn trồng thược dược (không phải là vườn thuốc). 
3.  Tư: sinh trưởng.
4.  Dư: Tôi, ta .
5.  謝時Tạ thời: Từ bỏ thế tục.
6.  鸞鶴Loan hạc:  Thời xưa chỉ chim muông thuộc cõi tiên. 
7.  Quần: nhập bầy với…

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
Ở LẠI ĐÊM TẠI NƠI Ở ẨN CỦA VƯƠNG XƯƠNG LINH.
Suối trong sâu đến vô cùng,
Chốn nhàn chỉ thấy một vùng mây côi.
Rừng thông hé ánh trăng soi,
Vì người mà vẫn sáng ngời vẻ xưa.
Lều tranh im lặng bóng hoa,
Rêu cùng thược dược quyện hòa sắc tươi.
Nguyện xin từ tạ chốn đời,
Đến cùng loan, hạc phương trời Tây Sơn.
10/2014




Thứ Sáu, 3 tháng 10, 2014

GẢY ĐÀN - Lưu Trường Khanh

Chữ Hán:
彈琴 
劉長卿 
泠泠七絃上,
靜聽松風寒。 
古調雖自愛,
今人多不彈。
Âm Hán Việt:
ĐÀN CẦM
Lưu Trường Khanh
Lãnh lãnh thất huyền thượng 
Tĩnh thích tùng phong hàn 
Cổ điệu tuy tự ái 
Kim nhân bất đa đàn. 
Dịch nghĩa:
GẢY ĐÀN
Trên bảy dây đàn lạnh lẽo, vang lên tiếng gió lạnh trên hàng thông khi yên lặng nghe.
Điệu nhạc cổ tuy là điệu mình yêu thích, nhưng người thời nay không còn gảy nhiều nữa. 



Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
GẢY ĐÀN
Lặng nghe trên bảy dây đàn,
Tiếng như gió buốt trên hàng thông reo.
Điệu xưa ta những mến yêu,
Giờ đây nào có bao nhiêu người đàn.
10/2014

LÊN LẦU QUÁN TƯỚC - Vương Chi Hoán

Chữ Hán:
登鹳雀楼
王之渙
白日依山尽
黄河入海流
欲穷千里目
更上一层楼
Âm Hán Việt:
ĐĂNG QUÁN TƯỚC LÂU
Vương Chi Hoán
Bạch nhật y sơn tận,
Hoàng Hà nhập hải lưu.
Dục cùng thiên lý mục,
Cánh thướng nhất tằng lâu.
Dịch nghĩa:
LÊN LẦU QUÁN TƯỚC
Mặt trời xuống đã tựa vào núi; sông Hoàng chảy vào biển cả. Muốn phóng tầm mắt trông xa ngàn dặm, hãy lên thêm một tầng lầu nữa.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
LÊN LẦU QUÁN TƯỚC
Mặt trời đã tựa non rồi,
Sông Hoàng nước đổ về khơi mịt mùng.
Muốn xem cảnh đẹp muôn trùng,
Lầu cao tầng nữa ta cùng nhau lên.
10/2014


Thứ Năm, 2 tháng 10, 2014

RA QUAN ẢI - Vương Chi Hoán

Chữ Hán:
出塞
王之渙
黃河遠上白雲間,
一片孤城萬仞山。
羌笛何須怨楊柳,
春風不度玉門關。
Âm Hán Việt:

XUẤT TÁI
Vương Chi Hoán
Hoàng hà viễn thướng bạch vân gian,
Nhất phiến cô thành vạn nhận san.
Khương địch hà tu oán dương liễu,
Xuân phong bất độ Ngọc Môn quan.
Tác giả: Vương Chi Hoán
Vương Chi Hoán (688742); tự Quý Lăng, là nhà thơ nổi tiếng thời thịnh Đường;  người Tịnh Châu (nay là Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây, TQ).  Tư liệu về cuộc đời của ông không nhiều, chỉ biết lúc trẻ ông từ Tịnh Châu dời về Giáng Châu (nay là huyện Giáng Châu, tỉnh Sơn Tây, TQ), từng làm chủ bạ Hành Thủy, Ký Châu). Sau làm chức úy ở huyện Văn An và tạ thế trong lúc đương nhiệm.
Vương Chi Hoán thiếu thời đã tinh thông văn chương, giỏi làm thơ; tính tình hào phóng ngang ngạnh, thơ cũng như người, khí thế hào hùng, nhiệt tình trào dâng. Các bài thơ của ông được “chuyển thể thành nhạc, lưu mãi trong dân”, được đại chúng yêu chuộng sâu sắc, nhờ đó mà truyền tụng muôn đời, tên tuổi sánh ngang Cao Thích, Sầm Tham, Vương Xương Linh, v.v. Ông thường cùng những người này hòa xướng với nhau, nổi danh một thời. Bởi ông không chuộng khoa cử công danh, nên cuộc đời cũng không được nhiều người biết đến, chỉ từ mộ chí mà thấy được đây là một thi nhân “Có hiếu với nhà, có nghĩa với bạn, khảng khái vô tư, tài năng phóng khoáng”. Nghe nói ông sáng tác rất nhiều thơ, đáng tiếc là chỉ có sáu bài tứ tuyệt là được lưu truyền lại, thâu tập trong «Toàn Đường thi», trong đó “Đăng Quán Tước lâu” và “Xuất trại” (còn gọi là “Lương Châu từ”) là nổi tiếng nhất.
Ghi chú:
1/ 萬仞(vạn nhận): một nhận bằng tám thước, vạn nhận có nghĩa mô tả núi rất cao.
2/ 羌笛(Khương địch): loại sáo do người Khương chế ra, có 2 lỗ.
3/ 玉門關(Ngọc Môn quan): ải Ngọc Môn nay nằm ở tây nam huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, TQ, là đường giao thông quan trọng sang Tây Vực thời cổ đại.
4/ 孤城 (cô thành): chính là chỉ Ngọc Môn quan
Dịch nghĩa:
RA QUAN ẢI
Sông Hoàng nguồn từ xa tít tắp trên cao như nhập vào khoảng mây trắng, một mảnh thành cô đơn giữa núi cao muôn trượng.
Tiếng sáo Khương cần chi thổi “khúc oán bẻ liễu”, vì ai cũng biết gió xuân chẳng bao giờ thổi đến cửa ải Ngọc Môn.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
RA QUAN ẢI
Vương Chi Hoán
Sông Hoàng nguồn tít trời xanh,
Non cao chót vót, mảnh thành chơi vơi.
Thổi chi oán liễu sáo ai,
Gió xuân đâu đến được ngoài Ngọc Môn

10/2014

Thứ Tư, 1 tháng 10, 2014

KHÚC CA LƯƠNG CHÂU - Vương Hàn

Chữ Hán:
涼 州 詞  
 
葡萄美酒夜光杯, 
欲飲琵琶馬上催。
醉臥沙場君莫笑,
古來征戰幾人回。
Âm Hán Việt:

LƯƠNG CHÂU TỪ 
Vương  Hàn
Bồ đào mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thượng thôi.
Tuý ngoạ sa trường quân mạc tiếu,
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. 
Tác giả: Vương Hàn 
Vương Hàn (Không rõ năm sinh năm mất, nghe nhiều người nói năm sinh năm mất là 687 - 726, nhưng không có tài liệu chắc chắn nào). Tự là Tử Vũ, người Tấn Dương, Tinh Châu (nay là huyện Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Năm 710 (đời Đường Duệ tông) ông thi đậu tiến sĩ, làm quan đến chức Giá bộ viên ngoại lang. Vì kiêu căng nên nhiều người ghét, bị đổi ra làm Trưởng sử Nhữ Châu, sau đổi làm Biệt giá Tiên Châu, rồi bị biếm làm Tư mã Đạo Châu và mất tại đây.
Ghi chú:
Lương Châu: tỉnh cam Túc ngày nay.
Lương Châu từ: là lời ca phối của một khúc ca thịnh hành đương thời (thịnh Đường), loại ca khúc này đều gọi là “Lương Châu từ” (không phải là tựa đề của bài thơ).
Chén dạ quang: Loại chén rượu làm bằng ngọc trắng; chén dạ quang và rượu nho đều là đặc sản vùng tây bắc TQ.
Tỳ bà: Nghĩa ở đây là đàn dùng để phát ra hiệu lệnh xuất phát trong tác chiến thờ xưa.
Dịch nghĩa:
KHÚC CA LƯƠNG CHÂU
Rượu nho ngon rót vào chén ngọc dạ quang, định uống thì tiếng tỳ bà đã giục lên ngựa. Xin bạn chớ chê cười kẻ say nằm trên bãi chiến trường, nên nhớ từ xưa tới nay, những người đi chiến trận có mấy ai trở về được?
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
 KHÚC CA LƯƠNG CHÂU
Rượu nho rót chén dạ quang,
Vừa nâng chén, đã giục vang tiếng đàn.
Chớ cười say ngủ sa trường,
Chiến binh trở lại quê hương mấy người?
Tháng 10/2014