Chữ Hán:
金陵圖
韋莊
江雨霏霏江草齊,
六朝如夢鳥空啼。 無情最是臺城柳, 依舊煙籠十里堤。( |
Âm Hán Việt:
KIM LĂNG ĐỒ
Vi Trang
Giang vũ phi phi, giang thảo tề,
Lục triều như mộng, điểu không đề. Vô tình tối thị Đài Thành liễu, Y cựu yên lung thập lý đê. |
Tác giả: Vi Trang,
Vi Trang (836 – 910) Nhà thơ, từ - đời vãn đường. Tự là Đoan kỷ. Người
Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc),
dòng dõi Tể tướng Vi Kiến Tổ đời Đường. Năm 894 đời Đường Chiêu Tông, Vi Trang thi đỗ Tiến sĩ,
được bổ làm chức Hiệu thư lang. Sau đó, làm Phán quan tại Tây Xuyên. Rồi được Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến dùng làm chưởng thư ký. Khi Vương
kiến xưng đế, lập ra nhà Tiền Thục (thời Ngũ Đại Thập Quốc), Vi Trang được phong làm Tể
tướng. Tại Thành Đô, ông làm nhà trên nền cũ thảo đường của Đỗ Phủ ở Hoàn Hoa khê. Năm 910, Vi Trang mất ở đất
Thục.
Ông là tác giả bài thơ dài Tần phụ ngâm rất nổi tiếng, gồm 1666 chữ, tả cảnh
chiến loạn trong lúc Hoàng Sào xâm nhập Trường An. Ông có địa vị trọng yếu trên
từ đàn đời Đường.
Chú thích:
Kim Lăng: nay là Nam Kinh, tỉnh Giang Tô,TQ
Lục Triều: Sáu triều đại đều đóng đô ở Kim Lăng: Đông
Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần.
Dịch nghĩa:
BỨC
TRANH KIM LĂNG
Mưa sông phơi phới, cỏ sông mọc đều, sáu triều thoảng qua như giấc mơ, chỉ
có tiếng chim kêu hờ hững. Vô tình nhất là rặng liễu ở Đài Thành, vẫn như xưa,
buông rủ xuống như làn khỏi phủ trên con đê dài mười dặm.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn
Chử dịch
BỨC TRANH KIM LĂNG
Mưa bay
bay cỏ mọc đều,
Sáu
triều như mộng, chim kêu vật vờ.
Đài
Thành rặng liễu thờ ơ,
Rủ
cành như khói phủ mờ con đê.
12/2014
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét