Thứ Tư, 24 tháng 9, 2014

BÀI CA LIỆT NỮ - Mạnh Giao

Chữ Hán:
烈女操
孟郊
梧桐相待老,
鴛鴦會雙死。
貞婦貴殉夫,
捨生亦如此。
波瀾誓不起,
妾心古井水
Âm Hán Việt:
LIỆT NỮ THÁO
Mạnh Giao
Ngô đồng tương đãi lão,
Uyên ương hội song tử.
Trinh nữ quý tuẫn phu,
Xả sinh diệc như thử.
Ba lang thệ bất khởi,
Thiếp tâm cổ tỉnh thủy.
Dịch nghĩa:
BÀI CA LIỆT NỮ
Cây ngô đồng chờ nhau cùng già, chim uyên ương biết cùng chết cả hai. Người Trinh phụ (phụ nữ trinh trắng) coi trọng việc chết theo chồng, bỏ cuộc sống cũng giống như (ngô đồng hay uyên ương) vậy. Thề quyết không nổi sóng, thiếp giữ lòng phẳng lặng như mặt giếng xưa.
Tác giả: Mạnh Giao (xem Tiểu sử ở bài "Khúc ngâm của người đi xa")

Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch:
BÀI CA LIỆT NỮ
Ngô đồng biết chờ nhau già,
Uyên ương sống thác luôn đà có đôi.
Nguyện sinh tử theo chồng thôi,
Trọn danh trinh phụ, xem đời nhẹ tênh.
Sóng ngầm nén lại cho yên,
Cầm lòng như mặt giếng êm thuở nào.
HCMC18/11/10

Thứ Ba, 16 tháng 9, 2014

CHUYỆN CŨ KỂ LẠI

(Một câu chuyện có thật)        
Ông là nguyên phó giám đốc Công ty chúng tôi, nghỉ hưu đã vài năm. Hàng năm Công đoàn Công ty đều đến thăm ông và biếu quà tết của Công ty. Những năm ấy, ông bà còn khỏe, kinh tế khá giả, bà chăm ông rất chu đáo. Ông khỏe, bà vui…
Ông bà có hai anh con trai, đều học hành đỗ đạt, có địa vị, nhà cao cửa rộng.
            Không lâu sau, bà mất. Con ông bán nhà của ông bà rồi đưa ông về ở chung với chúng.
Từ đó chúng tôi mất liên lạc, không biết ông ở đâu.
Sau khi tìm mãi mới biết ông ở với anh con trai lớn – nghe nói là bác sĩ quân y.
            Được tin ông ốm nặng, anh em chúng tôi đến thăm ông.
Thật quá bất ngờ, khi tới nhà, bước vào cửa phòng ông nằm, mùi nước đái khô xông lên nồng nặc, ông nằm chỏng trơ trên một chiếc giường giữa căn phòng gần cầu thang tầng trệt, tòa nhà 4 tầng; trên bụng che một tấm mền. Nhìn xuống sàn nhà thấy cặn lên một lớp khô của nước đái (chắc do ông tè ra lâu ngày không lau chùi?).
“Cô chú ơi, để cháu mặc quần áo cho ông, ông còn đi lại được.” Cô giúp việc nói với chúng tôi.
Thì ra ở nhà chỉ có ông và cô bé giúp việc.
Ngồi ở chiếc bàn phía ngoài chờ ông. Ông chầm chậm tiến lại gần, nheo mắt nhìn chúng tôi qua cặp kính cận.
“Cụ có nhận ra chúng tôi không?”  Tôi hỏi.
Đăm chiêu suy nghĩ một hồi, cụ liền chậm rãi: “Anh … chủ tịch công đoàn phải không?”
Vậy là ông vẫn còn tỉnh táo.
“Cô chú ơi, ông …vẫn ăn được, vẫn cà phê, người chỉ hơi mệt, giá như anh chị ấy đưa ông đi bệnh viện tiếp nước thì ông sẽ khỏe.” Cô giúp việc lại nói với chúng tôi.
Ngồi nói chuyện với ông hồi lâu, chúng tôi gửi quà của Công ty rồi chia tay ông ra về. Ông bắt tay chúng tôi, vẻ mặt rạng rỡ; dường như mong được gặp chúng tôi thường xuyên...
Nhưng không ngờ, đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp ông. Một tuần sau ông qua đời. 
Khi lo thủ tục tang lễ cho ông, mặc dù ở đây đã vài năm nhưng hộ khẩu và Đảng tịch của ông vẫn nằm ở địa phương cũ; con ông chưa chuyển về chỗ ở mới…?
Hôm ấy tôi cứ nghĩ mãi: “Giá như bà đi sau ông, giá như ông có một mụn con gái, hay giá như…thì ông không đến nỗi khổ thế.”
Tiền bạc danh vọng, nhà cao cửa rộng… của những anh con trai kia, phỏng có ý nghĩa gì đối với ông?

Tháng 9/2014
Nguyễn Văn Chử

Viết  lại theo ký ức

Chủ Nhật, 7 tháng 9, 2014

DÒNG SUỐI PHÍA TÂY TRỪ CHÂU - Vi Ứng Vật

Chữ Hán:
 滁州西澗
韋應
獨憐幽草澗邊生,
上有黃鸝深樹鳴。
春潮帶雨晚來急,
野渡無人舟自
Âm Hán Việt:

TRỪ CHÂU TÂY GIẢN
Vi Ứng Vật
Độc lân u thảo giản biên sinh, 
Thượng hữu hoàng ly thâm thụ minh. 
Xuân triều đái vũ vãn lai cấp, 
Dã độ vô nhân chu tự hoành.
Tác giả: Vi Ứng Vật 
Vi Ứng Vật (737-792) nhà thơ Trung Quốc đời Đường; người Trường An (nay là Tây An, tỉnh Thiểm Tây, TQ). Đời Đường Huyền Tông ông được bổ làm chức Tam vệ lang, được ra vào cung cấm. Sau ông thi đỗ Tiến sĩ, được cử làm Thứ sử Trừ Châu, Giang Châu, rồi Tô Châu; được dân chúng rất mến phục (gọi ông là Vi Tô Châu). Năm 792, đời Đường Đức Tông, Vi Ứng Vật mất, lúc ấy ông khoảng 55 tuổi.
Sinh thời, tính ông chuộng nghĩa hiệp, có lúc cuồng phóng, nhưng cũng rất cao khiết, mỗi lần đi đến đâu, ông cũng cho quét sạch đất, đốt hương rồi mới ngồi. Ông không thích giao du rộng, bạn thơ chỉ có Lưu Trường Khanh, Cố Huống, Thích Hiệu Nhiên; và ông thường ví mình với Đào Tiềm. Theo học giả Nguyễn Hiến Lê, thì Vi Ứng Vật thuộc phái "tự nhiên" trong lịch sử thi ca đời Đường

Ghi chú:
Trừ châu: nay là Trừ Châu, An Huy, TQ
Tây giản: một con suối nhỏ ngoại ô phía tây thành Trừ châu; có người gọi là sông Thượng Mã.

Dịch nghĩa:
DÒNG SUỐI PHÍA TÂY TRỪ CHÂU
            Riêng yêu mến lớp cỏ mọc bên bờ suối, phía trên có chim oanh vàng hót trong bụi cây rậm. Con nước mùa xuân đem theo mưa, về chiều tối càng chảy gấp, bến vắng không người, thuyên bè tự dập dềnh theo sóng.

(图)《滁州西涧》
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
DÒNG SUỐI PHÍA TÂY TRỪ CHÂU
Yêu thay cỏ tốt bên khe,
Trên lùm cây rậm oanh ca rộn ràng.
Chiều mưa con nước dâng tràn,
Dập dềnh thuyền lắc, bến hoang không người.
Tháng 9/2014



Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

BÀI CA TRONG CUNG - Chu Khánh Dư

Chữ Hán:
宮詞
朱慶餘
寂寂花時閉院門,
美人相並立瓊軒。
含情欲說宮中事,
鸚鵡前頭不敢言
Âm Hán Việt:

CUNG  TỪ 
Chu Khánh Dư
Tịch tịch hoa thì bế viện môn, 
Mỹ nhân tương tịch lập quỳnh hiên. 
Hàm tình dục thuyết cung trung sự, 
Anh vũ tiền đầu bất cảm ngôn.
Dịch nghĩa:
BÀI CA TRONG CUNG
Mùa hoa, cửa viện đóng kín, yên lặng, các cung nữ xinh đẹp sánh vai nhau, đứng bên hiên ngọcLòng chan chứa tình cảm, muốn kể với nhau về chuyện trong cung, nhưng thấy chim anh vũ phía trước, nên  không dám nói gì.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
BÀI CA TRONG CUNG
Mùa hoa cửa đóng then cài
Bên hiên mỹ nữ sánh vai đứng cùng.
Toan bày tỏ chuyện trong cung,
Thấy chim anh vũ, ngại ngùng rồi thôi.
9/2014

Thứ Sáu, 5 tháng 9, 2014

BÀI CA DƯỚI ẢI (2) - Vương Xương Linh

Chữ Hán:
塞下曲 其二
王昌齡
飲馬渡秋水,
水寒風似刀。 
平沙日未沒,
黯黯見臨洮。 
昔日長城戰,
咸言意氣高; 
黃塵足今古,
白骨亂蓬蒿。 
Âm Hán Việt:

TÁI HẠ KHÚC (2)
Vương Xương Linh

Ẩm mã độ thu thủy, 
Thủy hàn phong tự đao 
Bình sa nhật vị một, 
Ảm ảm kiến Lâm Thao. 
Tích nhật Trường Thành chiến, 
Hàm ngôn ý khí cao 
Hoàng trần túc kim cổ, 
Bạch cốt loạn bồng hao. 
Dịch nghĩa:
 BÀI CA DƯỚI ẢI (2)
Cho ngựa uống nước rồi lội qua dòng sông thu, nước lạnh giá và gió thổi như dao cắt
Trên bãi cát phẳng mặt trời chưa lặn, nhìn thấy vùng Lâm Thao mờ mịt. 
Trong trận chiến tại Trường Thành ngày xưa, mọi người đều nói khí thế bừng bừng. 
Bụi vàng tràn ngập suốt ngàn xưa, xương trắng tơi bời trong đám cỏ dại. 
Ghi chú: “Tái hạ khúc” của Vương Xương Linh gồm 4 bài, bài này là bài thứ 2.
Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
BÀI CA DƯỚI ẢI (2)
Bến trong ngựa uống nước rồi,
Vượt dòng sông lạnh, gió thời như dao.
Mặt trời còn ở trên cao,
Mà vùng cát phẳng, Lâm Thao mịt mờ.
Trường Thành trận chiến ngày xưa,
Đều rằng chí khí vô bờ dâng cao.
Bụi vàng thiên cổ ào ào,
Đầy đồng xương trắng lẫn vào cỏ hoang.

Tháng 9/2014

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2014

ĐÊM MƯA GỬI VỀ BẮC - Lý Thương Ẩn

Chữ Hán:
夜雨寄北
李商隱
君問歸期未有期,
巴山夜雨漲秋池。
 
何當共剪西窗燭,
卻話巴山夜雨時。
Âm Hán Việt:

DẠ VŨ KÝ BẮC
Lý Thương Ẩn
Quân vấn quy kỳ vị hữu kỳ,
Ba sơn dạ vũ trướng thu trì.
Hà đang cộng tiễn tây song chúc,
Khước thoại Ba sơn dạ vũ thì.

Ghi chú:
Ba Sơn: Tên núi. Nơi giao giới giữa phía nam Thiểm Tây với đông bắc Tứ Xuyên. Ở đây dùng chỉ vùng Ba Thục.

Dịch nghĩa:
ĐÊM MƯA GỬI VỀ BẮC

Người hỏi ngày tôi trở về, nhưng tôi chưa biết ngày nào về được, trận mưa đêm ở Ba Sơn làm cho nước ao thu dâng tràn. Khi nào được trở về (ngồi thức) cùng nhau cắt tàn nến bên cửa sổ tây, tôi sẽ kể người nghe chuyện mưa đêm ở Ba Sơn này.

《夜雨寄北》

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
ĐÊM MƯA GỬI VỀ BẮC
Hỏi về chửa biết ngày nào,
Ba Sơn mưa tối nước ao thu đầy.
Bao giờ về tựa song tây,
Khêu đèn kể chuyện nơi này mưa đêm.
   
9/2014

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2014

GIẢ SINH - Lý Thương Ẩn

Chữ Hán:
賈生
李商隱:
宣室求賢訪逐臣, 
賈生才調更無倫。 
可憐夜半虛前席, 
不問蒼生問鬼神
Âm Hán Việt:

GIẢ SINH
Lý Thương Ẩn
Tuyên thất cầu hiền phỏng trục thần,
Giả Sinh tài điệu cách vô luân.
Khả lân dạ bán hư tiền tịch,
Bất vấn thương sinh vấn quỷ thẩn.
Ghi chú:
Giả Sinh: tức Giả Nghị, nhà chính luận nổi tiếng thời Tây Hán, đời Hán Văn đế, làm chức Bác Sĩ, bị gièm pha, biếm ra làm quan tại Trường Sa. Sau được Văn Đế triệu về, hỏi ý kiến, nhưng cũng không được nghe theo. Mất năm mới 33 tuổi.
Tuyên thất: Phòng chính trong điện trước cung Vị Ương đời Hán.

Dịch nghĩa;
GIẢ SINH
Tại Tuyên thất, vua cầu người hiền, hỏi thăm đến những bề tôi bị biếm trích, trong số những người này, Giả Sinh có tài điệu không ai bằng được. Tiếc thay, vào lúc nửa đêm, nhà vua để trống chỗ ngồi phía trước để đón tiếp ông, nhưng lại chẳng hỏi gì đến nhân dân mà chỉ hỏi chuyện quỷ thần.


Dịch thơ;
Nguyễn Văn Chử dịch
GIẢ SINH
Phòng Tuyên vua cầu người hiền,
Tài hoa Giả Nghị đứng trên muôn người.
Nửa đêm đến chỗ vua vời,
Buồn thay người chẳng hỏi đời dân đen.
9/2014

Thứ Hai, 1 tháng 9, 2014

LÊN LẠC DU NGUYÊN - Lý Thương Ẩn

Chữ Hán:
登樂遊原 
李商隱
向晚意不適, 
驅車登古原。
 
夕陽無限好,
 
只是近黃昏。
Âm Hán Việt:

ĐĂNG LẠC DU NGUYÊN
Lý Thương Ẩn
Hướng vãn ý bất thích,
Khu xa đăng cổ nguyên.
Tịch dương vô hạn hảo,
Chỉ thị cận hoàng hôn
Dịch nghĩa:

LÊN LẠC DU NGUYÊN
Sắp về chiều tối, ý không thỏa thích, đi xe lên khu đất cổ. Bóng nắng chiều đẹp đẽ vô hạn, chỉ có điều là đã gần hoàng hôn.
Tác giả: Lý Thương Ẩn
Lý Thương Ẩn (813 – 858) Tự là Nghĩa Sơn, hiệu là Ngọc Khê sinh, Phàn Nam sinh. Là nhà thơ thời vãn Đường; người Hoài Châu, Hà Nội (nay là thành phố Thấm Dương, Hà Nam), TQ.
Năm 837 (đời Đường Văn tông), nhờ thế lực của Lệnh Hồ Đào, con của Lệnh Hồ Sở mà được chấm đậu tiến sĩ. Rồi được Vương Mậu Nguyên, trấn thủ Hà Dương, dùng vào việc thư ký và gả con gái cho. Vì Mậu Nguyên lại là địch thủ chính trị của phái Lệnh Hồ Sở, nên ông bị coi là người vong ân. Khi Mậu Nguyên chết, ông có đến kinh thành, nhưng không được quan chức gì. Sau nhờ Trịnh Á, ông được bổ nhiệm làm chức quan sát phán quan. Ba năm sau, về triều được làm một chức quan nhỏ tại Kinh Triệu. Khi Lệnh Hồ Đào làm tể tưởng, ông có nhiều lần dâng thư trần tình, nhưng không được xét đến. Sau nhờ  Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Sính dùng ông làm phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Khi họ Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông suốt cả đời long đong khốn khổ, nương nhờ hết người này người khác. Cuối cùng ông về đất Trịnh Châu, rồi bệnh chết năm 858 trong niềm cô đơn, uất ức, đau khổ khi chỉ mới 46 tuổi.
Thơ Lý Thương Ẩn nổi tiếng ngang Ôn Đình Quân  Đỗ Mục, nên người đời thường gọi là "Ôn - Lý" hay "tiểu Lý - Đỗ" (để phân biệt với "Lý - Đỗ" là Lý Bạch - Đỗ Phủ). Tương truyền ông từng có tình ái với nữ đạo sị Tống hoa Dương và các cung nữ Lư Phi Loan, Khinh Phượng. Những bài thơ “Vô đề” của ông được làm ra cốt để tả những mối tình bí ẩn này.
            Lý Thương Ẩn có ảnh hưởng rất lớn đối với thi đàn đời Tống. Vương An Thạch khen thơ ông có cái vr tài tình giống thơ Đỗ Phủ. Các nhà thơ phái Tây Côn chủ trương mô phỏng thơ ông trong khi sáng tác.
 Ghi chú:

Lạc Du nguyên: tên một khu du lãm nổi tiếng tại Trường An, ở phía bắc Khúc giang trì. Thơ Đỗ Mục có câu: “ Lạc Du nguyên thượng vọng Chiêu lăng” (Ngắm cảnh Chiêu lăng trên Lạc Du nguyên).


Dịch thơ
Nguyễn Văn Chử dịch
LÊN LẠC DU NGUYÊN
Chiều hôm lòng những buồn phiền,
Đánh xe lên tận nơi miền đất xưa.
Nắng chiều đẹp đẽ vô bờ,
Tiếc rằng trời đã mờ mờ hoàng hôn.
Tháng 9/2014