Thứ Ba, 30 tháng 12, 2014

BÓNG ĐÁ VÀ WORLD CUP

Bóng đá
Liên đoàn bóng đá Quốc tế xác nhận và công khai tuyên bố thể thao bóng đá khởi nguồn tại Trung Quốc. Ngay từ thời kỳ Chiến Quốc 2500 năm trước Trung Quốc đã có trò chơi bóng đá. “Chiến quốc sách” là cuốn sách sớm nhất nêu ra hoạt động bóng đá, trong sách gọi bóng đá là “cúc”. Bắt đầu từ đời Hán, bóng đá được thay đổi chế tạo bằng da thuộc, bên trong nhồi lông tóc, thành bóng tròn. Đến đời Đường, bắt đầu lấy bàng quang (bọng đái) của động vật đưa vào trong bóng da làm ruột bóng, sau khi nạp hơi vào đem ra sử dụng, tên là “Khí thú”, nó rất giống với bóng đá hiện đại.
Mà phương Tây đến thế kỷ 12 mới có trò chơi bóng đá. Đến thế kỷ 16, châu Âu xuất hiện môn bóng đá giấy bồi. Mặc dù nước Anh không phải nước khởi nguồn của thể thao bóng đá, nhưng lại là nước phát triển rất tốt môn thể thao này. Năm 1863 nước Anh thành lập Hiệp hội bóng đá, sửa đổi trên đỉnh hai cột buộc mỗi cột một sợi dây thừng, hạn chế chiều cao của cầu môn. Cầu môn treo lưới tiêu chuẩn ngày nay là năm 1891 mới xuất hiện.

Giải bóng đá vô địch thế giới - World Cup
         Bóng đá hiện đại nổi tiếng toàn cầu ngày nay là khởi nguồn từ nước Anh. Năm 1896, khi Đại hội Thể thao Olympic hiện đại lần đầu tiên được tổ chức tại Hy Lạp, bóng đá được liệt vào hạng mục thi đấu chính thức, Đan Mạch trở thành nhà quán quân Thế vận hội Olympic đầu tiên, sau khi thắng đậm Hy Lạp 9 – 0. Vì Thế vận hội Olympic không cho phép vận động viên chuyên nghiệp tham gia, đến năm 1928 (Thế vận hội Olympic lần thứ 9) thi đấu bóng đá đã không thể duy trì.
         Sau khi Thế vận hội Olympic năm 1928 kết thúc, Liên đoàn bóng đá Quốc tế mở Hội nghị đại biểu, nhất trí thông qua quyết nghị, tổ chức Giải vô địch bóng đá thế giới 4 năm 1 lần. Năm 1956, Hội nghị Liên đoàn bóng đá Quốc tế triệu tập tại Luxembourg, quyết định đổi tên thành “Giải bóng đá Cúp Jules Rimet”. Đây chính là để tuyên dương sự cống hiến cho phong trào bóng đá của Jules Rimet cựu chủ tịch FIFA người Pháp. Jules Rimet đảm nhận chủ tịch FIFA 33 năm (năm 1921 ~ 1954), là người khởi phát và tổ chức Giải vô địch bóng đá Thế giới. sau này, có người kiến nghị ghép 2 cái tên lại gọi là "Giải vô địch bóng đá thế giới - Cúp Jules Rimet". Thế là tại Hội nghị Helsinki quyết định đổi tên là "Giải vô địch bóng đá thế giới - Cúp Jules Rimet", gọi tắt là “World Cup”.
ST


Thứ Sáu, 5 tháng 12, 2014

KHUÊ OÁN - Vương Xương Linh

Chữ Hán:
閨怨 
王昌齡 
閨中少婦不知愁,
春日凝妝上翠樓。 
忽見陌頭楊柳色,
悔教夫婿覓封侯。
Âm Hán Việt:
KHUÊ OÁN
Vương Xương Linh
 
Khuê trung thiếu phụ bất tri sầu, 
Xuân nhật ngưng trang thượng thúy lâu. 
Hốt kiến mạch đầu dương liễu sắc, 
Hối giáo phu tế mịch phong hầu. 
Dịch nghĩa:
NỖI OÁN TRONG PHÒNG KHUÊ
Trong phòng khuê, người vợ trẻ không biết buồn rầu, ngày xuân, nàng trang điểm rồi bước lên lầu biếc. Chợt nhìn thấy sắc dương liễu ở đầu đường, nàng mới thấy hối hận vì đã khuyên chồng đi lính để nhanh được phong tước hầu.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
 NỖI OÁN TRONG PHÒNG KHUÊ
Phòng khuê chửa biết buồn rầu,
Nàng luôn trang điểm lên lầu ngày xuân.
Chợt nhìn về rặng liễu xanh,
Hận mình đã muốn chồng nhanh phong hầu.
12/2014


Thứ Năm, 4 tháng 12, 2014

KIM LĂNG ĐỒ - Vi Trang

Chữ Hán:
金陵圖
韋莊
江雨霏霏江草齊,
六朝如夢鳥空啼。
無情最是臺城柳,
依舊煙籠十里堤。(
Âm Hán Việt:
KIM LĂNG ĐỒ
Vi Trang

Giang vũ phi phi, giang thảo tề, 
Lục triều như mộng, điểu không đề. 
Vô tình tối thị Đài Thành liễu, 
Y cựu yên lung thập lý đê.
Tác giả: Vi Trang,
Vi Trang (836 – 910) Nhà thơ, từ - đời vãn đường. Tự là Đoan kỷ. Người  Đỗ Lăng, quận Kinh Triệu (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Trung Quốc), dòng dõi Tể tướng Vi Kiến Tổ đời Đường. Năm 894 đời Đường Chiêu Tông, Vi Trang thi đỗ Tiến sĩ, được bổ làm chức Hiệu thư lang. Sau đó, làm Phán quan tại Tây Xuyên. Rồi được  Tây Xuyên tiết độ sứ Vương Kiến dùng làm chưởng thư ký. Khi Vương kiến xưng đế, lập ra nhà Tiền Thục (thời Ngũ Đại Thập Quốc), Vi Trang được phong làm Tể tướng. Tại Thành Đô, ông làm nhà trên nền cũ thảo đường của Đỗ Phủ ở Hoàn Hoa khê. Năm 910, Vi Trang mất ở đất Thục.
Ông là tác giả bài thơ dài Tần phụ ngâm rất nổi tiếng, gồm 1666 chữ, tả cảnh chiến loạn trong lúc Hoàng Sào xâm nhập Trường An. Ông có địa vị trọng yếu trên từ đàn đời Đường.

Chú thích:
Kim Lăng: nay là Nam Kinh, tỉnh Giang Tô,TQ
Lục Triều: Sáu triều đại đều đóng đô ở Kim Lăng: Đông Ngô, Đông Tấn, Tống, Tề, Lương, Trần.
Dịch nghĩa:
BỨC TRANH KIM LĂNG
Mưa sông phơi phới, cỏ sông mọc đều, sáu triều thoảng qua như giấc mơ, chỉ có tiếng chim kêu hờ hững. Vô tình nhất là rặng liễu ở Đài Thành, vẫn như xưa, buông rủ xuống như làn khỏi phủ trên con đê dài mười dặm.
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
BỨC TRANH KIM LĂNG
Mưa bay bay cỏ mọc đều,
Sáu triều như mộng, chim kêu vật vờ.
Đài Thành rặng liễu thờ ơ,
Rủ cành như khói phủ mờ con đê.
12/2014

Thứ Tư, 3 tháng 12, 2014

TRƯỜNG AN CHÍNH NGUYỆT THẬP NGŨ NHẬT - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
長安正月十五日 
白居易 
喧喧車騎帝王州 
羈病無心逐勝 
明月春風三五夜 
萬人行樂一人愁
 
Âm Hán Việt:
TRƯỜNG AN CHÍNH NGUYỆT
THẬP NGŨ NHẬT
Bạch Cư Dị
Huyên huyên xa kị đế vương châu, 
Ki bệnh  tâm trục thắng du.  
Minh nguyệt xuân phong tam ngũ dạ, 
Vạn nhân hành lạc nhất nhân sầu.

Dịch nghĩa:
RẰM THÁNG RIÊNG Ở TRƯỜNG AN

Chốn kinh thành ngựa xe nhộn nhịp, nơi đất khách, ốm quá không còn tâm trí du ngoạn thắng cảnh nữa. Giữa đêm rằm xuân gió mát trăng trong, muôn người vui chơi, chỉ riêng một mình ta sầu.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
RẰM THÁNG RIÊNG Ở TRƯỜNG AN
Kinh thành nhộn nhịp ngựa xe,
Quê người, bệnh tật thiết gì dong chơi.
Rằm xuân gió mát trăng soi,
Muôn người vui, chỉ một người buồn đau.
12/2014


Thứ Ba, 2 tháng 12, 2014

VIỆT TRUNG LÃM CỔ - Lý Bạch

Chữ Hán:

越中覽

李白
越王勾踐破吳歸,
義士還家盡錦衣
宮女如花滿春殿,
而今惟有鷓鴣飛
Âm Hán Việt:
VIỆT TRUNG LÃM CỔ
Lý Bạch
Việt vương Câu Tiễn phá Ngô quy, 
Nghĩa sĩ hoàn gia tận cẩm y.
Cung nữ như hoa mãn xuân điện, 
Nhi kim duy hữu giá cô phi. 


Dịch nghĩa:
NGẮM CẢNH CŨ NƯỚC VIỆT
Khi vua Việt, Câu Tiễn đánh tan quân nước Ngô trở về, các nghĩa sĩ thảy đều mặc áo gấm  về nhà. Cung nữ đẹp như hoa đầy trong điện xuân xưa, nay chỉ thấy có những con chim đa đa bay lượn.

 

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
NGẮM CẢNH CŨ NƯỚC VIỆT
Phá Ngô, vua Việt trở về,
 Nghĩa quân áo gấm vinh quy khải hoàn.
Điện xuân cung nữ ngập tràn,
 Giờ đây chỉ thấy có đàn chim bay.
12/2014


Thứ Hai, 1 tháng 12, 2014

GIANG NAM KHÚC - Lý Ích

Chữ Hán:
江南曲
李益
嫁得瞿塘賈,
朝朝誤妾期。
早知潮有信,
嫁與弄潮兒。
Âm Hán Việt:
GIANG NAM KHÚC
 Lý Ích

Giá đắc  Đường cổ,
Triêu triêu ngộ thiếp kì. 
Tảo tri triều hữu tín,
Giá dữ lộng triều nhi.
Dịch nghĩa:
 KHÚC CA GIANG NAM

 Thiếp lấy phải gã lái buôn ở Cù Đường, sáng nào cũng lỗi hẹn với thiếp 
Phải chi sớm biết thủy triều đúng hẹn, thì thiếp thà lấy quách người chèo thuyền cho xong. 

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
KHÚC CA GIANG NAM
Lấy chồng phải gã lái buôn,
Lão luôn thất hứa để buồn thân em.
Sớm hay đúng hẹn triều lên.
Em thà làm vợ người quen bơi thuyền.
12/2014


ỨC GIANG LIỄU - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
憶江柳
白居易
曾栽柳江南岸,
江南度春
遙憶青青江岸上,
不知攀折是何人
Âm Hán Việt:
ỨC GIANG LIỄU
Bạch Cư Dị

Tằng tài dương liễu Giang Nam ngạn,
Nhất biệt Giang Nam lưỡng độ xuân.
Dao ức thanh thanh giang ngạn thượng,
Bất tri phan chiết thị hà nhân.

Dịch nghĩa:
NHỚ LIỄU BÊN SÔNG
Từng trồng dương liễu ở bờ sông Giang Nam, từ khi cách biệt Giang Nam đến nay đã hai mùa xuân. Ở xa nhớ màu xanh xanh (liễu rủ) trên bờ sông, chỉ không biết đến bẻ cành liễu bây giờ là người nào. 
  
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
NHỚ LIỄU BÊN SÔNG
Liễu trồng bờ ấy Giang Nam,
Mới đây mà đã hai năm xa lìa.
Nhớ sao liễu rủ ven bờ,
Bẻ cành nào biết bây giờ là ai?
12/2014

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2014

TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC - Bạch Cư Dị

Chữ Hán:
重陽席上賦白菊
白居易
滿園花菊鬱金黄,
中有孤叢色似霜。
還似今朝歌酒席,
白頭翁入少年場
Âm Hán Việt:
TRÙNG DƯƠNG TỊCH THƯỢNG PHÚ BẠCH CÚC
Bạch Cư Dị 
Mãn viên hoa cúc uất kim hoàng, 
Trung hữu cô tùng sắc tự sương. 
Hoàn tự kim triêu ca tửu tịch, 
Bạch đầu ông nhập thiếu niên trường. 
Chú thích:
Toàn bài thơ biểu đạt nhà thơ tuy đã cao niên những vẫn có sự đam mê như đám trẻ tuổi. Ví mình như đóa hoa cúc trắng nổi lên giữa vườn cúc vàng…

Dịch nghĩa:
VỊNH HOA CÚC TRẮNG TRÊN BÀN TIỆC NGÀY TRÙNG DƯƠNG.
Đầy vườn cúc nở hoa vàng như nghệ, giữa nổi lên một khóm màu trắng tựa sương tuyệt đẹp. 
Chẳng khác trong tiệc rượu ca hát sớm nay, một ông già đầu bạc xen lẫn giữa đám tuổi trẻ.

  Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
VỊNH HOA CÚC TRẮNG TRÊN BÀN TIỆC
NGÀY TẾT TRÙNG DƯƠNG.
Khắp vườn nở rộ cúc vàng,
Chen vào một đóa trắng sương tuyệt vời.
Y như tiệc sáng nay thôi,
Tóc ngà xen giữa đám người tóc xanh.
11/2014


Thứ Tư, 5 tháng 11, 2014

KÝ VIỄN - Lý Bạch

Chữ Hán:
寄遠
李白
美人在時花滿堂, 
美人去時餘空床。
 
床中繡被卷不寢,
 
至今三載聞餘香。
 
香亦竟不滅,
 
人亦竟不來。
 
相思黃葉盡,
 
白露濕青苔。
 
Âm Hán Việt:
KÝ VIỄN
Lý Bạch

Mỹ nhân tại thì hoa mãn đường, 
Mỹ nhân khứ thì dư không sàng. 
Sàng trung tú bị quyển bất tẩm, 
Chí kim tam tải văn dư hương. 
Hương diệc cánh bất diệt, 
Nhân diệc cánh bất lai. 
Tương tư hoàng diệp tận, 
Bạch lộ thấp thanh đài.  

Dịch nghĩa:
 GỬI ĐI XA

Khi người đẹp còn ở thì hoa nở đầy nhà, khi người đã đẹp đi, chỉ còn lại chiếc giường trống. Trên giường chăn gấm đã cuộn không ai nằm, mà đã ba năm vẫn con dư hương thơm. Hương không mất đi, người cũng không trở lại. Thương nhớ khôn nguôi khi lá vàng rụng hết, sương trắng ướt sũn trên rêu xanh.


  
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
GỬI ĐI XA
Có nàng hoa nở đầy nhà,
Nàng đi thì chiếc giường đà bỏ không.
Giường đây chăn gối ai nằm,
 Mà hương thơm đã ba năm vẫn nồng.
Hương nồng vương vấn trong lòng,
Đi xa xa mãi người không trở về.
Nhớ thương lá rụng não nề,
Rêu xanh trắng phủ đầm đìa móc sương.
11/2014

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2014

TỬ DẠ THU CA - Lý Bạch

Chữ Hán:
子夜秋歌
李白
長安一片月,
萬戶搗衣聲。
秋風吹不盡,
總是玉關情。
何日平胡虜,
良人罷遠徵。
Âm Hán Việt:
TỬ DẠ THU CA
Lý Bạch

Trường An nhất phiến nguyệt,
Vạn hộ đảo y thanh.
Thu phong xuy bất tận, 
Tổng thị Ngọc Quan tình. 
 nhật bình Hồ lỗ, 
Lương nhân bãi viễn chinh. 
Dịch nghĩa:
 BÀI CA MÙA THU CỦA NÀNG TỬ DẠ

Một mảnh trăng chiếu trên thành Trường An, tiếng chày đập áo vang lên tự muôn nhà. Vì sao gió thu thổi mãi vẫn không át hết tiếng động ấy, là vì tiếng động ấy phát ra từ tay những thiếu phụ vương vấn mối tình miền Ngọc Quan. Bao giờ dẹp xong giặc Hồ, để cho chồng được nghỉ chinh chiến trở về.
Ghi chú:
Tử Dạ: Tên một người con gái đời Tấn, người đã làm một bài ca rất bi ai.
Ngọc Quan: Tức Ngọc Môn Quan, nay ở phía tây Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, TQ
搗衣聲(đảo y thanh): Tiếng đập áo. Trước thời Tống, việc trồng bông ở Trung Quốc chưa phổ biến, trang phục chỉ có thể dùng hàng dệt tơ và gai. Hàng dệt tơ thời ấy chỉ có thể cung cấp cho quý tộc; còn dân thường phần lớn bận đồ sợi gai. Nhược điểm rõ nhất của hàng dệt gai là rất cứng, nên trước khi mặc phải đập cho mềm, phẳng ra, (đây chính là tiếng đập áo nói trong bài này, không phải giặt bằng nước). Đập áo tuy cũng phải dùng chày và đá kê đập, nhưng mục đích của nó chỉ là làm cho áo mềm và phẳng phiu ra, mà đập ở nhà, không phải ra bờ sông, lại thường tiến hành vào ban đêm.

Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
BÀI CA MÙA THU CỦA NÀNG TỬ DẠ
Trường An một mảnh trăng ngà,
Tiếng kêu đập áo muôn nhà rộn lên.
Gió thu thổi mãi chẳng yên,
Bởi còn vương vấn mối tình Ngọc Quan.
Bao giờ giặc dã dẹp tan,
Chàng thôi chinh chiến bình an trở về.
11/2014



Thứ Hai, 3 tháng 11, 2014

BÁT TRẬN ĐỒ - Đỗ Phủ

Chữ Hán:
八陣圖

功蓋三分國,
名成八陣圖。
江流石不轉,
遺恨失吞吳
Âm Hán Việt:
BÁT TRẬN ĐỒ
Đỗ Phủ

Công cái tam phân quốc,
Danh thành Bát trận đồ.
Giang lưu thạch bất chuyển,
Di hận thất thôn Ngô.
Dịch nghĩa:
TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI

Công lớn trùm thời nước chia ba (thời Tam quốc: Ngụy; Thục; Ngô), tên tuổi vang dội nhờ bày ra trận đồ Bát quái. Nước sông vẫn chảy, nhưng đá không lay chuyển, như còn để lại mối hận đă không thôn tính  nổi nước Ngô.

Kết quả hình ảnh cho 八陣圖杜甫
Dịch thơ:
Nguyễn Văn Chử dịch
TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI
Công trùm thời nước chia ba,
Danh cao bởi Bát trận đồ bày nên.
Nước trôi đá vẫn còn nguyên,
Hận chưa thôn tính được miền Đông Ngô.

10/2014